Kỳ vọng về sự tăng trưởng trong FDI từ các doanh nghiệp Hoa Kỳ

Theo TS. Burkhard Schrage - Chủ nhiệm cấp cao chương trình MBA/EMBA (Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam), kinh tế Hoa Kỳ dựa trên sự đổi mới và được công nhận rộng rãi với vị thế dẫn đầu trong các ngành công nghệ cao. Do đó, Hoa Kỳ là đối tác phù hợp khi Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2050 thông qua việc thay thế các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng thấp bằng các ngành công nghiệp công nghệ cao và có giá trị gia tăng cao.

Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ là động lực mới cho đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam
Nvidia và Microsoft sẽ triển khai các dự án lớn về trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam. Ảnh minh họa

Đáng chú ý, các giám đốc điều hành cấp cao của Google, Intel, Amkor, Marvell, GlobalFoundries và Boeing đã tham dự Hội nghị Đổi mới và Đầu tư Việt Nam - Hoa Kỳ sau khi tuyên bố chung về Đối tác Chiến lược Toàn diện được đưa ra. Hội nghị cũng có sự tham gia của lãnh đạo đến từ nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam.

Những thông báo hợp tác và FDI lớn đầu tiên trong khuôn khổ quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện mới đã được công bố. Theo đó, Nvidia và Microsoft sẽ triển khai các dự án lớn về trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam. Các tập đoàn có trụ sở tại bang California như Synopsys và Marvell đã thông báo sẽ xây dựng các trung tâm thiết kế chip bán dẫn tại TP. Hồ Chí Minh.

Hoa Kỳ và Việt Nam cũng tuyên bố khởi động các sáng kiến phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực bán dẫn, trong đó Chính phủ Hoa Kỳ sẽ cấp khoản tài trợ ban đầu trị giá 2 triệu USD.

Thương mại là nền tảng của mối quan hệ song phương Việt Nam - Hoa Kỳ và những thay đổi lớn đã diễn ra trong vài thập kỷ qua. Năm 1995, thương mại song phương giữa hai nước chỉ đạt 451 triệu USD, con số này năm ngoái đã vượt mốc 123 tỷ USD.

FDI từ Hoa Kỳ vào Việt Nam trong những năm gần đây trong tương quan với sức mạnh kinh tế Hoa Kỳ là chưa cao. Tính đến nay, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã có khoảng 1.270 dự án tại Việt Nam, với tổng vốn đăng ký khoảng 11,73 tỷ USD, đứng thứ 11 trong số các nước có vốn đầu tư vào Việt Nam.

Trong nửa đầu năm 2023, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đầu tư trên 405 triệu USD, đứng thứ 8 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.

“Tuy nhiên, chúng ta có thể mong đợi sự tăng trưởng trong FDI từ các doanh nghiệp Hoa Kỳ sau thỏa thuận này. Việc Chính phủ Hoa Kỳ tăng cường hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hội đồng quản trị đưa ra quyết định phân bổ vốn và các nguồn lực khác cho Việt Nam” - TS. Burkhard Schrage nhận định.

Theo TS. Burkhard Schrage, chắc chắn có thể mong đợi hiệu ứng lan tỏa kiến thức tích cực bên cạnh hiệu ứng chuyển giao công nghệ bài bản hơn. Những tác động lan tỏa thường làm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước và có ý nghĩa rất quan trọng đối với giai đoạn tăng trưởng tiếp theo của họ. Giai đoạn này năng lực cạnh tranh trên quy mô toàn cầu nên đòi hỏi phải có phương pháp quản lý và sản xuất tốt nhất.

Phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực công nghệ cao

Theo một số nhà phân tích, việc Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp lên Đối tác Chiến lược Toàn diện là điều kiện tuyệt vời để Việt Nam có thể khai thác tốt chiến lược Friendshoring (chuyển sản xuất sang nước bạn) của Hoa Kỳ cho mục tiêu trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Kết hợp với những nội dung thoả thuận của hai nước, phía Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp và các nhà làm chính sách nên tìm hiểu cụ thể các nội dung trên để khai thác các cơ hội trong chiến lược Friendshoring của Hoa Kỳ.

Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ là động lực mới cho đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam
Các nhà sản xuất linh kiện chuyên dụng cũng là một phần của các ngành công nghiệp hỗ trợ thiết yếu. Ảnh minh họa

Trả lời câu hỏi Việt Nam cần làm gì để tận dụng cơ hội thu hút đầu tư từ Hoa Kỳ khi hai nước nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, TS. Burkhard Schrage cho rằng, ở mức độ cơ bản, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh để trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này bao gồm giảm thủ tục hành chính, đảm bảo pháp quyền và bảo vệ quyền sở hữu.

Còn ở mức độ cụ thể hơn, nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của các ngành công nghiệp hỗ trợ khi thu hút FDI. Bằng cách phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực công nghệ cao, Việt Nam có thể thu hút doanh nghiệp dựa vào các ngành này.

Công nghiệp hỗ trợ trong công nghệ cao có thể là các cơ sở giáo dục tập trung vào thiết kế vi mạch, lập trình, kỹ thuật điện tử, các lĩnh vực tiên tiến trong y học... Nhiều nhà sản xuất linh kiện chuyên dụng cũng là một phần của các ngành công nghiệp hỗ trợ thiết yếu.

Ngoài ra, TS. Burkhard Schrage cũng lưu ý, nhiều hoạt động “công nghệ thấp” cũng là thành tố quan trọng của các cụm công nghệ cao. Chẳng hạn, các công ty đóng gói chất lượng cao hiểu rõ yêu cầu trong ngành điện tử tiêu dùng, hoặc các công ty hậu cần có thể xử lý hàng hóa nhạy cảm một cách đáng tin cậy.

“Trường hợp cụm công nghệ cao của Bắc Ninh đưa ra lộ trình điển hình cho những gì mà quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện với Hoa Kỳ có thể mở ra trên quy mô quốc gia: nếu Việt Nam có thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước trở thành đối tác và nhà cung cấp đáng tin cậy cho dòng vốn FDI từ nước ngoài thì tương lai của Việt Nam sẽ rất tươi sáng, với triển vọng chuyển đổi sang sản xuất có giá trị cao hơn và trở thành một phần ngày càng quan trọng trong chuỗi giá trị công nghệ cao toàn cầu” - TS Burkhard Schrage nhấn mạnh.

Các nhóm hàng hóa ưu tiên trong chiến lược Friendshoring của Hoa Kỳ

Theo sắc lệnh điều hành về chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ số 1417 của Tổng thống Hoa Kỳ ban hành ngày 24/2/2021, 4 nhóm có tính chất chiến lược cần phải đảm bảo gồm: y tế công cộng và các vật phẩm sinh học; công nghệ thông tin và truyền thông (ICT); năng lượng; các khoáng sản và vật liệu quan trọng. Cơ quan Quản lý Thương mại Quốc tế (ITA) của Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã xây dựng một danh sách khoảng 2.400 hàng hóa và nguyên liệu quan trọng trong 4 chuỗi cung ứng đó.