Trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025 diễn ra ngày 5/12, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã cùng tham gia thảo luận về định hướng chiến lược cho Việt Nam trong giai đoạn tới.

Dưới sự điều hành của TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính), phiên thảo luận tập trung vào chủ đề then chốt là "vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu và định hướng những chính sách vĩ mô".

Từ “bẫy lắp ráp” đến “cơ hội Harvard”: Con đường tăng trưởng 2 con số bằng thể chế
TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính điều hành phiên thảo luận trong khuôn khổ Diễn đàn. Ảnh: Đức Thanh

Nâng cấp vị thế để thoát bẫy lắp ráp

Theo ông Sacha Dray - chuyên gia kinh tế Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đã làm rất tốt trong việc hội nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu và nền kinh tế thế giới chỉ trong một thời gian rất ngắn. Từ xuất khẩu gạo chiếm đa số, đến nay, hơn một nửa rổ hàng xuất khẩu của Việt Nam là hàng điện tử. Tuy nhiên, thách thức lớn là Việt Nam vẫn chỉ đang nắm một phần nhỏ giá trị được tạo ra. Gần 90% số công việc liên quan đến xuất khẩu vẫn nằm ở khâu sản xuất cơ bản hoặc lắp ráp.

Từ thực tế này, chuyên gia WB đề xuất 3 định hướng chiến lược để nâng cấp vị thế của Việt Nam.

Thứ nhất, là hội nhập thương mại theo cách mới, tập trung vào chiều sâu của các hiệp định thương mại và tỷ lệ tận dụng, đặc biệt là tự do hóa thương mại dịch vụ.

Thứ hai, là gỡ bỏ rào cản giữa FDI và kinh tế trong nước. Hiện tại, 73% hoạt động xuất khẩu được thực hiện bởi chỉ 3% doanh nghiệp, là các doanh nghiệp FDI. Để khắc phục, cần xây dựng chương trình phát triển toàn diện cho các doanh nghiệp tư nhân trong nước, cải thiện kỹ năng quản lý và kỹ thuật. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của các cơ quan xúc tiến đầu tư, tạo ra cơ sở dữ liệu nhà cung cấp tiềm năng có thể tìm kiếm được (bằng tiếng Anh và có xếp hạng rõ ràng) để kết nối họ với các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba, là tăng hàm lượng dịch vụ trong chuỗi giá trị.

Nối tiếp gợi mở của ông Sacha Dray, ông Trần Ngọc Anh - Giáo sư Đại học Indiana Bloomington (Hoa Kỳ) chia sẻ một cơ hội chiến lược rất lớn cho Việt Nam. Đó là Tập đoàn Amazon đã quyết định chọn Việt Nam là trung tâm logistics toàn cầu thứ hai trên thế giới (trung tâm đầu tiên là Trung Quốc) và cũng là trung tâm của Đông Nam Á. Khi trung tâm mở ra sẽ cho phép doanh nghiệp Việt Nam bán trực tiếp qua hệ thống của Amazon đến tất cả thị trường lớn của thế giới.

Để đón nhận thành công cơ hội từ Amazon, GS. Trần Ngọc Anh lưu ý, Việt Nam phải đảm bảo được nguồn năng lượng rất lớn và sạch. Đi cùng với đó là phải cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi để doanh nghiệp Việt vươn lên nắm bắt cơ hội này, nếu không, các doanh nghiệp nước khác sẽ đầu tư vào Việt Nam để tận dụng cơ hội. Hệ thống thể chế cần được tiếp tục cải cách, trong đó liên quan nhiều đến chính sách thuế và quy trình hải quan.

“Bộ Tài chính có vai trò quyết định trong việc nắm bắt cơ hội này” - GS. Trần Ngọc Anh nhận định.

Với quyết định này, ông Trần Ngọc Anh cho biết, chuyên gia quốc tế ví von rằng, "Việt Nam vừa mới trúng vào Harvard", bởi đây là quyết định rất quan trọng có thể thay đổi nền kinh tế sâu rộng, tác động trực tiếp lên các doanh nghiệp Việt Nam mà không cần thông qua hệ thống FDI. Tuy nhiên, để từ "trúng tuyển" đến "tốt nghiệp" và biến cơ hội này thành thành công gấp 10 lần, cần có những chính sách đồng bộ và quyết định mạnh mẽ, đặc biệt là từ Chính phủ và Bộ Tài chính.

Trong đó, ông Trần Ngọc Anh nhấn mạnh, cần nâng cấp hạ tầng đồng bộ để đáp ứng vai trò trung tâm trung chuyển hàng hóa cho cả Đông Nam Á. Amazon và các nhà đầu tư, các ngân hàng phát triển có thể sẵn sàng cùng đầu tư với Việt Nam, song cần có môi trường chính sách phù hợp và thuận lợi để đón nhận đầu tư.

Nhấn mạnh tầm quan trọng của cải cách thể chế trong bối cảnh hiện nay, ông Bùi Tất Thắng - nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Phát triển dẫn ví dụ giải Nobel về kinh tế năm 2024 đã được trao cho những nhà khoa học vinh danh tư tưởng "thể chế có ý nghĩa quyết định đối với sự giàu có hay nghèo khó của một quốc gia".

Hiểu rõ điều này, Việt Nam đã tiến hành các cải cách thể chế lớn chưa từng có trong hơn một năm qua với tâm thế quyết đoán, khẩn trương. Trong đó, bao gồm từ những chính sách truyền thống về thuế, về môi trường kinh doanh cho đến cho phép triển khai các mô hình mới như trung tâm tài chính quốc tế, khu thương mại tự do, tài sản số…

Trước đây, Việt Nam dựa nhiều vào thuế để tăng sức hấp dẫn đầu tư, nhưng với tình hình hiện nay, giải pháp thuần tuý về thuế không còn phù hợp. Thay vào đó, cần có các chính sách khuyến khích ngoài thuế để thúc đẩy động lực tăng trưởng mới như kinh tế xanh, kinh tế số…

Dù trước mắt còn nhiều gian nan, nhưng với sự thay đổi về tư duy và hành động, ông Thắng bày tỏ tin tưởng mục tiêu tăng trưởng 2 con số là hoàn toàn có thể.

Đầu tư phải đi đôi với quản trị tốt

Để hỗ trợ cho mục tiêu tăng trưởng cao, bà Kimora Hidemi - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách Nhật Bản (PRI) đã chia sẻ kinh nghiệm tài khóa của Nhật Bản.

Nhật Bản đạt tăng trưởng nhanh trong những năm 1950 - 1960 nhờ hỗ trợ mạnh mẽ cho đầu tư hạ tầng và công nghiệp định hướng xuất khẩu. Nước này bắt đầu phát hành trái phiếu công trình (construction bond) vào năm 1966 để giới hạn việc vay nợ chỉ cho các dự án đầu tư sinh lời, tạo ra lợi ích kinh tế rõ ràng, chứ không phải để bù đắp thâm hụt.

Tuy nhiên, Nhật Bản bước vào giai đoạn trì trệ kéo dài từ những năm 1990, khi doanh thu thuế suy yếu và chi tiêu an sinh xã hội tăng cao do dân số già hóa nhanh chóng. Tỷ lệ dân số trên 65 tuổi ở Nhật Bản hiện tại khoảng 30%. Bà Hidemi cảnh báo, Việt Nam nên nhận thức rằng, quá trình chuyển đổi nhân khẩu học có thể diễn ra nhanh hơn dự kiến.

Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy, để thoát khỏi tình trạng trì trệ, Nhật Bản đang tập trung vào việc tạo ra một chu kỳ kinh tế bền vững hơn: sản xuất cao hơn dẫn đến tiền lương cao hơn, chi tiêu hộ gia đình mạnh hơn và đầu tư doanh nghiệp nhiều hơn. Các bài học này rất hữu ích cho Việt Nam trong việc quản trị chi phí xã hội, cân bằng đầu tư công và an toàn tài khóa trong bối cảnh dân số cũng đang già hóa.

Đúc kết lại những ý tưởng, đề xuất tại phiên thảo luận, TS. Nguyễn Như Quỳnh nêu rõ, các diễn giả đều nhấn mạnh, Việt Nam đang đứng trước thời điểm quyết định. Muốn đạt được mức tăng trưởng và thu nhập cao, chúng ta phải thoát khỏi mô hình dựa vào chi phí thấp và chuyển lên giá trị cao hơn, phát triển mạnh mẽ về công nghiệp và công nghệ cũng như các dịch vụ hiện đại.

Trong đó, cải cách thể chế và nâng cao năng suất tổng hợp phải là nền tảng của tăng trưởng. Các khuyến nghị của các chuyên gia trong và ngoài nước đã nhấn mạnh tăng trưởng gắn với ổn định vĩ mô và phân bổ nguồn lực theo hiệu quả và năng suất để tăng sự chống chịu của nền kinh tế.

Đặc biệt, chính sách tài khóa bền vững giữ vai trò then chốt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển. “Những kinh nghiệm, chia sẻ, đặc biệt là kinh nghiệm từ Nhật Bản, cho thấy một thông điệp xuyên suốt là đầu tư phải đi đôi với quản trị tốt, mở rộng đầu tư phải cân bằng về an toàn tài khóa và có kỷ luật ngân sách, thì mới đảm bảo về dư địa để thực hiện các chính sách dài hạn” - TS. Nguyễn Như Quỳnh khẳng định.