Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền ra quyết định hoàn thuế
Trên cơ sở tổng kết đánh giá thực tiễn thi hành Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đã lựa chọn các vấn đề cấp bách cần giải quyết, có phương án xử lý rõ ràng, để sửa đổi đối với Luật này tại Luật sửa đổi, bổ sung 7 Luật trong lĩnh vực tài chính với 2 nhóm chính sách và 8 giải pháp.
Bổ sung thẩm quyền quyết định hoàn thuế nhằm đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền trong giải quyết hoàn thuế. Ảnh: TN |
Dự kiến sửa đổi, bổ sung 11 Điều trên tổng số 152 Điều của Luật Quản lý thuế hiện hành, bao gồm quy định về: Nguyên tắc quản lý thuế (Điều 5), Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (Điều 15), Quyền của người nộp thuế (Điều 16), Nguyên tắc khai thuế, tính thuế (Điều 42), Xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế (Điều 59), Nộp thuế trong thời gian giải quyết khiếu nại, khởi kiện (Điều 61);
Hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh (Điều 66), Thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế (Điều 75), Thẩm quyền quyết định hoàn thuế (Điều 76), Trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế (Điều 124), Biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế (Điều 125).
Các chuyên gia kinh tế cho rằng, dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) là một trong những nội dung đang được rất nhiều doanh nghiệp và người dân quan tâm. Những đề xuất trong dự án Luật quan trọng này được kỳ vọng sẽ tháo gỡ những “điểm nghẽn” lớn cho doanh nghiệp.
Một trong những điểm nhấn quan trọng trong dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) Bộ Tài chính đưa ra là sửa đổi quy định về thẩm quyền quyết định hoàn thuế.
Mục tiêu của việc sửa đổi Luật Quản lý thuế là nhằm tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý thuế, tăng cường trách nhiệm công vụ để đảm bảo công bằng, bình đẳng, minh bạch, thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật. |
Nêu lý do sửa đổi quy định này, Bộ Tài chính cho biết, Luật Quản lý thuế hiện hành chỉ có quy định Cục trưởng Cục Thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền quyết định hoàn thuế đối với trường hợp hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế.
Theo đó, Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn không có thẩm quyền quyết định hoàn thuế đối với trường hợp hoàn thuế theo pháp luật thuế, theo đó trong thời gian qua một số Tập đoàn, Tổng công ty do Cục Thuế doanh nghiệp lớn quản lý phải chuyển về cho cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý để giải quyết hoàn thuế cho người nộp thuế.
Theo Bộ Tài chính, điều này chưa đảm bảo nguyên tắc người nộp thuế lớn phải do Cục Thuế doanh nghiệp lớn quản lý. Còn đối với người nộp thuế do chi cục thuế trực tiếp quản lý thì hồ sơ hoàn do chi cục thuế tiếp nhận nhưng Chi cục trưởng Chi cục Thuế lại không có thẩm quyền quyết định hoàn thuế làm kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ hoàn thuế và chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
Vì vậy, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 76 theo hướng bổ sung thẩm quyền quyết định hoàn thuế của Cục trưởng Cục Thuế doanh nghiệp lớn, Chi cục trưởng Chi cục Thuế và Chi cục trưởng Chi cục Thuế khu vực nhằm đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền trong giải quyết hoàn thuế cho cơ quan thuế các cấp theo hướng cơ quan thuế nào tiếp nhận hồ sơ phải trực tiếp giải quyết và quyết định hoàn thuế, từ đó tạo thuận lợi cho người nộp thuế được giải quyết hồ sơ hoàn thuế nhanh.
Phục vụ tốt nhất việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế
Một nội dung quan trọng khác được Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi là sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến nguyên tắc quản lý thuế.
Theo Bộ Tài chính, pháp luật về quản lý thuế chưa quy định rõ trách nhiệm của công chức trong quản lý thuế, đặc biệt trong lĩnh vực hoàn thuế. Theo quy định của Luật Quản lý thuế thì người nộp thuế phải có trách nhiệm tự tính, tự kê khai, tự nộp thuế và chịu trách nhiệm về việc kê khai, nộp thuế của mình theo quy định của pháp luật. Cơ quan thuế sẽ thực hiện hậu kiểm theo nguyên tắc quản lý rủi ro.
Cán bộ thuế không thể kiểm soát hết được thông tin, dữ liệu mà người nộp thuế kê khai trên hồ sơ có gian lận, không đúng với thực tế phát sinh. Ảnh: TN |
Mặc dù hiện nay đã áp dụng hóa đơn điện tử, có kết nối chuyển dữ liệu đến cơ quan thuế trên toàn quốc tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp ngành thuế có cơ sở dữ liệu để phân tích, đánh giá rủi ro và tiến hành thanh tra, kiểm tra kịp thời các doanh nghiệp có dấu hiệu rủi ro cao về thuế.
Cơ quan thuế chưa có chức năng điều tra nên việc xác minh về hoạt động mua bán của người nộp thuế mất rất nhiều thời gian và cần sự phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị như ngân hàng thương mại, đơn vị vận chuyển và các cơ quan quản lý nhà nước như công an, hải quan,… |
Tuy nhiên, việc áp dụng hóa đơn điện tử chưa thể ngăn chặn được việc doanh nghiệp lập hóa đơn nhưng thực tế không có giao dịch mua bán hàng hóa. Để xác minh hoạt động mua bán, xuất nhập khẩu cơ quan thuế phải phối hợp với ngân hàng thương mại, đơn vị vận chuyển và các cơ quan quản lý nhà nước khác như công an, hải quan… để xác định, nhưng khi doanh nghiệp mua bán lòng vòng qua nhiều khâu trung gian thương mại thì việc xác định sẽ càng khó thực hiện.
Bộ Tài chính cho biết, thực tế, thời gian qua nhiều vụ việc mua bán hóa đơn với số tiền thuế lớn đã bị cơ quan công an qua nghiệp vụ điều tra phát hiện. Cán bộ thuế không thể kiểm soát hết được thông tin, dữ liệu mà người nộp thuế kê khai trên hồ sơ có gian lận, không đúng với thực tế phát sinh; hệ thống tự động không thể kiểm soát được hết bản chất giao dịch thực tế, gian lận về thuế do cơ quan thuế chưa có đầy đủ cơ sở dữ liệu về chứng từ thanh toán, vận chuyển, hợp đồng kinh tế, thông tin vi phạm của người nộp thuế tại các cơ quan quản lý nhà nước khác.
Bên cạnh đó, cơ quan thuế chưa có chức năng điều tra nên việc xác minh về hoạt động mua bán của người nộp thuế mất rất nhiều thời gian và cần sự phối hợp của nhiều cơ quan, đơn vị như ngân hàng thương mại, đơn vị vận chuyển và các cơ quan quản lý nhà nước như công an, hải quan…
Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 5 Luật Quản lý thuế quy định trách nhiệm của công chức quản lý thuế để thực hiện đầy đủ chức trách nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế./.