Chiều 8/12, Quốc hội thảo luận tại Hội trường về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030.
Tính toán kỹ nhu cầu điện cho mục tiêu tăng trưởng 10%
Theo đại biểu Nguyễn Quang Huân (đoàn Thành phố Hồ Chí Minh), nghị quyết là bước đi cần thiết để tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy phát triển năng lượng theo tinh thần Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị.
Tuy nhiên, đại biểu bày tỏ lo ngại về dự báo nhu cầu năng lượng trong tương lai, đặc biệt khi Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số và đẩy mạnh công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI).
![]() |
| Đại biểu Nguyễn Quang Huân (đoàn Thành phố Hồ Chí Minh) |
| Đại biểu ước tính, nếu trước đây GDP tăng 7 - 8% thì nhu cầu điện cần tăng 10 - 11%, nếu GDP tăng 10% thông thường thì nhu cầu điện cần 10-13%, nhưng khi áp dụng công nghệ số và AI, nhu cầu tăng trưởng điện hàng năm có thể là 15% hoặc hơn. Do đó, ngành điện nên tính toán nhu cầu phát triển điện cùng với nhu cầu phát triển kinh tế để bổ sung vào Nghị quyết, tạo ra một bức tranh toàn cảnh tốt hơn. |
Ông cũng bày tỏ băn khoăn với quy định tại Điều 8 về lựa chọn nhà đầu tư dự án đầu tư kinh doanh điện lực. Theo dự thảo, việc lựa chọn này chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, không đề cập đến công ty tư nhân. Theo đại biểu, nếu không đưa công ty tư nhân vào, việc đáp ứng nhu cầu tăng trưởng điện cao sẽ rất khó khăn.
Quy định này cũng chỉ ra sự phân biệt giữa Nhà nước và tư nhân, không theo tinh thần Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, vốn yêu cầu mọi doanh nghiệp đều phải tiếp cận nguồn lực bình đẳng.
Ngoài ra, đại biểu cũng lưu ý nghị quyết chỉ tập trung tháo gỡ khó khăn “trong tương lai" mà chưa đề cập đến khó khăn trước mắt. Đó là vấn đề của 173 dự án năng lượng tái tạo đang gặp vướng mắc nghiêm trọng. Lỗi của các dự án này là không có nghiệm thu cấp Nhà nước theo Luật Xây dựng dù đã được bán điện. Đại biểu lý giải, nguyên nhân một phần là do cơ quan quản lý Nhà nước và bên mua điện (bên không có hướng dẫn cụ thể về việc phải làm bản nghiệm thu) đã quản lý không rõ ràng, khiến nhà đầu tư làm theo và vi phạm Luật Xây dựng.
Cho rằng việc tháo gỡ vấn đề này đã vượt quyền của ngành điện hay Chính phủ, đại biểu kiến nghị Nghị quyết của Quốc hội nên tập trung tháo gỡ khó khăn trước mắt rồi sau đó sẽ tháo gỡ khó khăn lâu dài thì sẽ hợp lý hơn.
Quan tâm đến lĩnh vực thuỷ điện, đại biểu Nguyễn Anh Trí (đoàn Thừa Thiên Huế) chỉ ra trong toàn bộ nghị quyết không hề đề cập thủy điện. Mặc dù phát triển điện là hết sức quan trọng và cần được ủng hộ, song đại biểu nêu rõ phải đảm bảo "an toàn, không gây hại cho môi trường, an ninh quốc phòng, đời sống của nhân dân và tính mạng của con người". Để đảm bảo an toàn với hồ thuỷ điện, đại biểu nêu rõ các biện pháp như phải có dung tích đủ lớn, đảm bảo lượng tích trữ tối đa trong mùa mưa, sử dụng cửa xả đáy hợp lý để xả lũ, nắm chắc dự báo thời tiết, quy trình xả lũ hợp lý…
Trên thực tế, đại biểu chỉ ra thực trạng là có đến gần 20 thủy điện nhỏ và vừa đã từng xả lũ gây thiệt hại cho hạ lưu, như thủy điện Sông Lô 8A, thủy điện Thác Diện, thuỷ điện Nầm Pông, Nầm Xây, Suối Sập, Bản Vẽ, Hố Hô, A Lưới, Rào Trăng, Đắc Mi, Sê San… Báo chí cũng đã nhiều lần đề cập đến việc xả lũ này gây ra tình trạng "lũ chồng lũ rất nguy hiểm" cho vùng hạ lưu.
Các nguyên nhân chính gây thiệt hại khi xả lũ được quy thành 3 nhóm, gồm: thủy điện nhỏ nằm ở vùng đồi núi có địa hình dốc và nhiều suối, khiến việc xả lũ dễ gây lũ quét, sạt lở và ngập nhanh; các hồ chứa nhỏ không có dung tích dự trữ đủ lớn để điều tiết, khi mưa lớn buộc phải xả lũ, dễ gây lũ ống, lũ quét; việc vận hành và thông báo xả lũ đôi khi bất ngờ khiến người dân hạ du không có thời gian di dời phòng tránh.
Mặc dù Tờ trình 921 của Chính phủ (ngày 06/12/2025) có đề cập đến phòng chống xả lũ, nhưng nghị quyết quan trọng của Quốc hội lại không đề cập đến thủy điện, đặc biệt là quy hoạch và các biện pháp hạn chế tác dụng có hại của thủy điện nhỏ và vừa. Đại biểu cũng thông tin rằng gần đây, theo Quyết định số 1682 (ngày 28/12/2024) phê duyệt bổ sung kế hoạch quy hoạch phát triển điện quốc gia thời kỳ năm 2021 đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050 thì có khoảng 200 thủy điện nhỏ và vừa đã được phê duyệt.
![]() |
| Đại biểu Nguyễn Anh Trí (đoàn Thừa Thiên Huế) |
Nhận xét chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến thuỷ điện nhỏ và vừa, đặc biệt là đảm bảo an toàn, đại biểu đề nghị rà soát lại tất cả thủy điện nhỏ và vừa ở nước ta. Nếu xả lũ gây thiệt hại cho dân thì phải đền bù xứng đáng, và nếu gây tổn hại đến tính mạng dân thì phải xử lý hình sự.
Đồng thời, cần xem xét lại tất cả các dự án thủy điện nhỏ và vừa để làm cho thật an toàn, đưa các nội dung về thủy điện nhỏ và vừa vào các văn bản có tính pháp lý, bao gồm cả Nghị quyết này. Nếu có thể, Nhà nước nên đầu tư thật lớn để làm thủy điện lớn, và thay thế thủy điện nhỏ bằng điện gió và điện mặt trời, đại biểu Nguyễn Anh Trí đề nghị.
Không đưa vào nghị quyết quy định dự trữ quốc gia xăng dầu
Một trong những nội dung của dự thảo là quy định về dự trữ quốc gia xăng dầu tại Chương 7. Theo đó, dự thảo cho phép xăng dầu dự trữ quốc gia có thể cất giữ riêng hoặc cất giữ chung với hàng kinh doanh của doanh nghiệp nhận bảo quản (thuê bảo quản); cho phép chuyển đổi chủng loại xăng dầu dự trữ quốc gia bằng phương thức hoán đổi trực tiếp. Các quy định này được áp dụng đến hết ngày 31/12/2030.
Góp ý vấn đề này, đại biểu Phạm Thuý Trinh (đoàn Tuyên Quang) cho rằng, quy định của dự thảo sẽ dẫn tới sự trùng chéo không thống nhất giữa nghị quyết với Luật Dự trữ quốc gia sửa đổi.
Hiện nay, dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) đang được Chính phủ hoàn thiện trình Quốc hội thông qua vào cuối kỳ họp này đã thể chế hóa Nghị quyết 39, Kết luận 115, Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị. Theo đó, không quy định hàng dự trữ quốc gia phải cất giữ riêng như luật hiện hành và quy định rõ về thuê bảo quản hàng dự trữ quốc gia. Quy định này đã tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn mà cơ quan soạn thảo nêu tại tờ trình.
Bên cạnh đó, quy định về hoán đổi hàng dự trữ quốc gia đã được thể hiện tại điểm D khoản 2 Điều 22 dự thảo Luật Dự trữ quốc gia. Quy định như tại dự thảo Luật Dự trữ quốc gia sẽ là khung pháp lý đầy đủ hơn, phạm vi áp dụng rộng hơn so với nội dung đề xuất tại tờ trình và dự thảo nghị quyết. Vì vậy, đại biểu Phạm Thuý Trinh đề nghị không quy định Chương 7 tại dự thảo nghị quyết.



