Thủ tướng: Tăng trưởng GDP quý IV phải đạt trên 8,4% Từ “bẫy lắp ráp” đến “cơ hội Harvard”: Con đường tăng trưởng 2 con số bằng thể chế Tái cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn mới: Động lực tăng trưởng từ 4 trụ cột chiến lược

Mở khóa điểm nghẽn, định hướng tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2026 - 2030

Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Quốc Anh - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính nhấn mạnh, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với khát vọng đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, dựa trên 3 trụ cột, đó là: độc lập tự cường, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Xác lập mô hình tăng trưởng mới, đưa Việt Nam tăng trưởng GDP trên 10% giai đoạn 2026 - 2030
Ông Nguyễn Quốc Anh - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính phát biểu đề dẫn tại hội thảo. Ảnh: Đức Thanh.

"Để hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 và quan trọng hơn cả, để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số (10% trở lên) trong giai đoạn 2026 - 2030, một mục tiêu đầy tham vọng nên một trong những giải pháp chúng ta cần phải thực hiện là phải xác lập một mô hình tăng trưởng mới, hiệu quả hơn và bền vững hơn".

Ông Nguyễn Quốc Anh - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính.

Để đạt được điều đó, tăng trưởng kinh tế từ năm 2026 trở đi phải đạt được ít nhất 10%/năm. Giai đoạn 2021 - 2025, dù chịu nhiều tác động từ cú sốc toàn cầu, nền kinh tế vẫn giữ được ổn định vĩ mô, tạo nền tảng vững chắc.

"Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn những hạn chế, khi mà động lực chủ yếu vẫn dựa vào vốn, tài nguyên và lao động giá rẻ, chưa tạo được sự chuyển biến mang tính bứt phá" - ông Quốc Anh nêu rõ.

Hội thảo không chỉ là nơi để tổng kết, đánh giá, mà còn là diễn đàn để chúng ta cùng nhau "hiến kế" những giải pháp đột phá.

Theo đó, lãnh đạo Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính đề nghị xác định được những điểm nghẽn, “nút thắt” trong tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; xem xét, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước. Cùng với đó, đánh giá các nội dung về cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, định hướng giải pháp giai đoạn 2026 - 2030 và bài học từ địa phương. Từ đó, đề xuất định hướng tái cơ cấu nền kinh tế; xây dựng mục tiêu và chỉ tiêu đo lường.

Tại hội thảo, bà Lê Thị Mai Liên - Trưởng ban, Ban Kinh tế vĩ mô và dự báo (Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính) đánh giá khái quát tình hình và kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 (Nghị quyết 31).

Nghị quyết 31 đề ra 27 chỉ tiêu, tính đến nay có 23/27 chỉ tiêu có thông tin đánh giá. Trong đó, số chỉ tiêu có khả năng hoàn thành: 10/23; số chỉ tiêu khó có khả năng hoàn thành: 09/23 và số chỉ tiêu dự kiến không hoàn thành: 04/23.

Đáng chú ý, một số chỉ tiêu như: (1) tăng năng suất lao động; (2) số lượng các doanh nghiệp; (3) số lượng hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; (3) tỷ lệ hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị; (4) tỷ trọng chi cho khoa học và công nghệ, trong quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn và thách thức, đòi hỏi phải có nhiều nỗ lực rất lớn mới có thể đạt được.

Đối với 05 nhóm nhiệm vụ trọng tâm tại Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội đề ra trong giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 54/NQ - CP với 102 nhiệm vụ được triển khai thực hiện và mang lại nhiều kết quả quan trọng.

Cơ cấu lại đầu tư công, tăng chi cho công nghệ, giáo dục và y tế

Tại hội thảo, TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách của Thủ tướng Chính phủ làm rõ quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế cần được nhìn nhận theo hướng tiệm tiến, thực hiện thường xuyên và liên tục, hay cách tiếp cận cải tổ lớn “Big Bang” từng triển khai giai đoạn năm 2011 do nền kinh tế nhiều khó khăn và đầy bất ổn.

Phân tích từ góc độ cơ cấu lại đầu tư công, ông Lực khẳng định, đầu tư công giữ vai trò “dẫn dắt”, là “vốn mồi” của nền kinh tế, chiếm khoảng 17,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Một đồng vốn đầu tư công tăng thêm có khả năng kéo theo 1,61 đồng vốn đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư công vẫn chưa thực sự hợp lý.

Xác lập mô hình tăng trưởng mới, đưa Việt Nam tăng trưởng GDP trên 10% giai đoạn 2026 - 2030
Các đại biểu tại hội thảo hiến kế giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại toàn diện nền kinh tế. Ảnh: Đức Thanh.

Theo ông Lực, năm nay, tổng vốn đầu tư công đạt khoảng 34 tỷ USD (900 nghìn tỷ đồng), tăng 32%, mức cao nhất trong 5 năm và tương đương gần 7% GDP, đây là mức cao nhất châu Á, nhưng 80% vẫn tập trung vào cơ sở hạ tầng, trong khi các lĩnh vực khoa học công nghệ, y tế và giáo dục còn hạn chế.

Tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 18,2%, phần còn lại đến từ đầu tư tư nhân, FDI và hệ thống ngân hàng...

Theo TS. Cấn Văn Lực, đầu tư công chủ yếu tập trung cho cơ sở hạ tầng song vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu (58%). Theo đó, đầu tư cơ sở hạ tầng giai đoạn 2021 - 2025 chiếm bình quân 80% tổng vốn đầu tư công, do chúng ta còn thiếu hụt hạ tầng. Trong khi đó, các nước đầu tư 53 - 55% theo theo thống kê của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (WB/IMF).

Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV chỉ rõ, Trung Quốc trong thời kỳ tăng trưởng cao có tỷ lệ đóng góp của vốn tới 58,7%; Hàn Quốc khoảng 50,1%; Singapore 37,8%. Tại Việt Nam, giai đoạn 2001 - 2010, yếu tố vốn đóng góp cao nhất với 54,7%; năm 2025, ước tính vốn đóng góp 44,1%, lao động 8,9%, phần còn lại thuộc về năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).

Dù đầu tư công dành 80% cho cơ sở hạ tầng, song cơ cấu cũng chưa cân đối. Theo đó, hạ tầng giao thông chiếm 22% tổng vốn đầu tư công; năng lượng 32,3%; thông tin - truyền thông 12%; hạ tầng bền vững 26,1%; trong khi nước sạch chỉ chiếm 0,7%.

Xác lập mô hình tăng trưởng mới, đưa Việt Nam tăng trưởng GDP trên 10% giai đoạn 2026 - 2030

Đáng lưu ý, theo ông Lực, đầu tư cho giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và y tế vẫn khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 15% tổng vốn đầu tư công (gồm 10,3% cho giáo dục - đào tạo, 0,45% cho khoa học - công nghệ và 4,2% cho y tế), dù cải thiện nhưng thấp hơn so với khu vực.

Nghị quyết 57/NQ-TW đặt mục tiêu chi tối thiểu 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tương đương gấp 6 lần hiện nay. Nghị quyết số 71/NQ-TW yêu cầu chi cho giáo dục đào tạo tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước, gấp 2 lần mức hiện nay.

Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV nhấn mạnh, cần cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư công, quan trọng không kém việc tăng quy mô vốn. Theo đó, đầu tư công cho hạ tầng nên giảm dần về mức 50 - 55% tổng vốn đầu tư công, tương đương các nước trong khu vực; đồng thời tăng chi cho giáo dục đào tạo lên tối thiểu 20%, y tế 10 - 12%, khoa học công nghệ 3 - 5%.

Cùng với đó, cần cập nhật và hoàn thiện Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả dự án đầu tư công; đầu tư tránh dàn trảo, tập trung khoảng 3.000 dự án đầu tư công; xử lý dứt điểm gần 3.000 dự án vướng mắc, tồn đọng...

TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh cần phát triển đồng bộ và cân bằng hơn thị trường tài chính, tăng cường hợp tác quốc tế và đa dạng hóa kênh huy động vốn, hướng tới xây dựng Đề án cải cách toàn diện khu vực tài chính. Do cơ cấu thị trường hiện mất cân đối, hệ thống ngân hàng hàng năm đẩy vốn tín dụng ra nền kinh tế, tăng 17 - 18%/năm, khiến dư nợ tín dụng/GDP tiến gần 150% cuối năm 2025, tạo áp lực lớn. Vì vậy, việc xem xét lại cấu trúc thị trường tài chính là rất cần thiết để phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn và hỗ trợ tăng trưởng bền vững./.