Hội thảo khoa học về nước ngọt cho đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thu hút gần 100 nhà khoa học, các chuyên gia môi trường quan tâm tham dự, với mong muốn có những đóng góp hữu ích cho nhu cầu bức xúc, thiết thực về nước ngọt cho khu vực này.

Quang cảnh hội thảo liên quan đến nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Đỗ Doãn
Quang cảnh hội thảo liên quan đến nước ngọt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh: Đỗ Doãn

Nhu cầu bức thiết liên quan đến đời sống dân sinh, phát triển bền vững

Trình bày tại hộ thảo, TS. Võ Văn Hải – Giám đốc Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ miền Nam (Trường Bồi dưỡng cán bộ Tài chính - Bộ Tài chính), cho biết ĐBSCL là một bộ phận của châu thổ sông Mekong thuộc Việt Nam có diện tích 4 triệu ha. ĐBSCL có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, là chìa khóa chính trong chiến lược an ninh lương thực quốc gia.

Với tiềm năng nông nghiệp và thủy sản to lớn, trong những năm qua, ĐBSCL luôn đóng góp khoảng 53% tổng sản lượng lương thực, 65% tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng và 70% trái cây của cả nước. Tuy nhiên, ĐBSCL cũng luôn khan hiếm nguồn nước ngọt.

Ông Hải nhận định, nếu tất cả dòng nhánh bên bờ hữu sông Mekong thuộc Thái Lan đều có các trạm bơm lấy nước trữ trong các hồ chứa và Campuchia cũng toàn tương tự thì lượng nước về ĐBSCL sẽ giảm bớt trong mùa khô dẫn đến hạn hán, xâm nhập mặn tăng cao. Ngược lại, trong mùa lũ, lượng nước lũ sẽ giảm bớt. Việc thay đổi chế dộ dòng chảy và lượng phù sa suy giảm sẽ tác động mạnh mẽ tới sản xuất nông nghiệp của hơn 17 triệu dân ĐBSCL.

Trước kia tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười là hai vùng trũng tự nhiên, hàng năm ngập đến 3,5m. Có thể hấp thu từ đến 10 tỷ m3 mỗi vùng. Trong hơn 20 năm qua, không gian hấp thu lũ của 2 vùng này đã bị chiếm nhiều bởi các đê bao khép kín canh tác 3 vụ lúa/năm. Riêng vùng tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười khả năng lưu trữ nước tại vùng này không đáp ứng đủ cho sản xuất tại chỗ trong mùa khô và đã hoàn toàn không còn khả năng tích trữ nước cho cả vùng ĐBSCL trong mùa kiệt.

Từ kết quả của các tài liệu tham khảo cũng như tính toán của nhóm nhà khoa học, dễ dàng thấy được vấn đề thiếu nước ngọt ở ĐBSCL ngày một gia tăng, xâm nhập mặn ngày càng khốc liệt, tất cả xuất phát từ sự khai thác ở thượng nguồn sông Mekong một cách thái quá, mà hậu quả là ĐBSCL gánh chịu nặng nề.

Theo tính toán, nhu cầu sử dụng nước trên vùng ĐBSCL hàng năm hiện vào khoảng 22,8 tỷ m3. Trong đó, thiếu hụt nước ngọt vào mùa khô ở ĐBSCL hiện trạng vào khoảng 4,2 tỷ m3 hàng năm, dự báo lên đến 4,8 tỷ m3 vào năm 2030 và 5 tỷ m3 vào năm 2050. Nguyên nhân là do nhu cầu nước ngọt ở ĐBSCL rất lớn.

TS. Võ Văn Hải trình bày các phương án xây 2 hồ chứa nước ngọt cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Ảnh: Đỗ Doãn
TS. Võ Văn Hải trình bày các phương án xây 2 hồ chứa nước ngọt cho vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Ảnh: Đỗ Doãn

Xây hồ chứa để chủ động điều tiết, kiểm soát lượng nước

Từ thực tế nguồn nước ngọt cho ĐBSCL ngày càng eo hẹp, ông Hải cho rằng việc xây dựng các công trình thủy lợi, nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước, phục vụ phát triển bền vững cho vùng là rất cần thiết, nhưng những nghiên cứu về vấn đề này hiện vẫn chưa tổng thể, chưa thuyết phục và chưa có dự án nào giải quyết “nạn thiếu nước xâm nhập mặn” như mong đợi của người dân ĐBSCL cũng như chính quyền các cấp.

Do đó, ông Hải và một số nhà khoa học đã cùng nghiên cứu và có phương án đề xuất giải pháp thích hợp để góp phần vào việc xây dựng phát triển ĐBSCL bền vững, với dự án “Nước ngọt cho ĐBSCL”. Đó là phương án xây hồ chứa nước lới để chủ đổng điều tiết, kiểm soát lượng nước, giảm thiểu đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực đến đời sống dân sinh khu vực.

Theo đó, có hai khu vực để xây hồ là “Vườn quốc gia Tràm Chim” – Tam Nông – Đồng Tháp với 3 phương án có chi phí từ 30 nghìn đến 60 nghìn tỷ đồng; Khu bảo tồn “Lung Ngọc Hoàng” – Phụng Hiệp – Hậu Giang với 3 phương án có chi phí từ 18 nghìn tỷ đồng đến 68 nghìn tỷ đồng.

Ông Hải nhấn mạnh, mỗi phương án đều có những ưu, nhược điểm riêng nhưng nên chọn phương án 1 với phương châm “gian nan một lần, nhàn nhã trăm năm” có chi phí khoảng 130 nghìn đồng; làm cũng không chỉ vì hiện tại, mà làm còn vì những thế hệ mai sau. ‘‘Điều mà chúng ta cần quan tâm là lựa chọn phương án nào là có hiệu quả nhất để dự án đó phát huy tính hữu ích lâu dài như hồ Dầu Tiếng. Không chết yếu như một số hồ tốn kém vô cùng, nhưng hiệu quả thì quá nhỏ bé, thậm chí có những hồ xây dựng rồi nhưng hồ vẫn trơ đáy…’’ – ông Hải nói,

Theo ông Hải, ĐBSCL ở cuối nguồn dòng Mekong, nên cần phải xây dựng những hồ chứa nước ngọt đủ lớn, để điều tiết lưu lượng nước ngọt đáp ứng được nhu cầu cho toàn vùng, chứ không phải xây dựng những hồ chứa nước nhỏ tràn lan như hiện nay, vừa tốn kém ngân sách đất đai nhưng hiệu quả không cao; đồng thời hy vọng “Dự án xây dựng hồ chứa nước ngọt cho ĐBSCL” sẽ được các nhà khoa học, quan tâm góp ý để dự án có thể trở thành một kênh tham khảo hữu ích của các cấp chính quyền.

Thái Lan hiện có gần 100 hồ chứa, dung tích chứa hàng trăm triệu m3 và đang xây dựng thêm hàng trăm hồ cho vùng Đông Bắc với 990 dự án. Còn Campuchia với công trình thủy lợi Vaico do Trung Quốc hỗ trợ để xây hồ chứa Knap IK dung tích 1 tỷ m3 và đang tiếp tục làm nhiều kênh dẫn nước và hồ chứa để khai thác đất nông nghiệp.