Đây là một trong những nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý nợ công, vừa được Quốc hội thông qua chiều 10/12.

Luật có nội dung sửa đổi khá lớn, tới 24/63 điều của Luật Quản lý nợ công. Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, dự thảo Luật trước khi trình Quốc hội thông qua đã được rà soát đồng bộ với các luật liên quan như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Điều ước quốc tế, Luật Đầu tư công, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, bảo đảm rõ ràng trong quản lý nợ công và thống nhất về thể thức văn bản, hoàn thiện các khái niệm điều ước quốc tế, thỏa thuận vay, hạn mức bảo lãnh, tăng minh bạch và dễ thực hiện.

Chính phủ có thể quyết định nâng bảo lãnh vay vượt tăng trưởng GDP
Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình tại Quốc hội.

Mở rộng đối tượng được đề xuất vay

Theo đó, tại khoản 4 Điều 24, dự thảo Luật quy định:

4. Hạn mức bảo lãnh Chính phủ hằng năm được quy định như sau:

a) Trong phạm vi hạn mức bảo lãnh Chính phủ 5 năm đã được Quốc hội quyết định;

b) Tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh Chính phủ không vượt quá tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội của năm trước. Trường hợp vượt quá tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội của năm trước, Bộ Tài chính trình Chính phủ quyết định. Chính phủ quy định chi tiết điểm này…

Một trong những sửa đổi mới nhất tại dự thảo Luật là bổ sung thẩm quyền của Chính phủ quyết định điều hành linh hoạt khi hạn mức bảo lãnh Chính phủ có thể vượt tăng trưởng GDP năm trước.

Dự thảo Luật cũng giao Chính phủ quy định chi tiết quy trình lập, phê duyệt và công bố kế hoạch vay trả nợ công hàng năm. Đồng thời, cắt giảm quy trình thủ tục đối với các dự án sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi nước ngoài như đơn giản hóa nội dung đề xuất khoản vay nhằm đẩy nhanh tiếp cận nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi.

Quy trình được rút gọn một bước xin ý kiến thẩm tra và thẩm định của Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp đồng thời với xin ý kiến của các bộ ngành, cơ quan liên quan đối với đề xuất ký điều ước quốc tế về vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài.

Đáng chú ý, đối tượng được đề xuất vay được mở rộng bao gồm các bộ ngành trung ương, UBND cấp tỉnh và doanh nghiệp nhà nước. So với dự thảo luật ban đầu, quy định mới mở rộng hơn, cho phép doanh nghiệp có tỉ lệ sở hữu vốn nhà nước chi phối trên 50% được đề xuất khoản vay nhằm tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các chủ thể trong nền kinh tế.

Để tăng cường minh bạch dữ liệu nợ công, dự thảo Luật bổ sung quy định theo hướng Bộ Tài chính được giao xây dựng cơ sở dữ liệu nợ công thống nhất, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số và thực hiện báo cáo hàng tháng về nợ công.

Ngoài ra, dự thảo Luật đã bổ sung làm rõ về quy định chuyển tiếp nhằm bảo đảm tính liên tục, không gián đoạn trong quá trình thực hiện các chương trình dự án đã được Quốc hội cho phép áp dụng cơ chế đặc thù. Dự thảo cũng quy định thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ được miễn thuế, áp dụng thống nhất cho cả nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Cấp bảo lãnh Chính phủ không hạn chế về thành phấn kinh tế

Liên quan đến bảo lãnh vay, trong quá trình góp ý, có ý kiến đại biểu đề nghị Chính phủ và Bộ Tài chính cần nghiên cứu kỹ đối tượng, điều kiện cụ thể để bảo lãnh đối với các doanh nghiệp, như là các doanh nghiệp ngoài nhà nước được vay vốn ODA, tuy nhiên phải đảm bảo an toàn nợ công. Có ý kiến đề nghị bổ sung điều kiện ngoại lệ cho các doanh nghiệp có dự án PPP mới thành lập, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo…

Chính phủ có thể quyết định nâng bảo lãnh vay vượt tăng trưởng GDP
Kết quả biểu quyết thông qua Luật.

Tại báo cáo giải trình, Chính phủ cho biết bảo lãnh Chính phủ đối với khoản vay, khoản phát hành trái phiếu là cam kết của Chính phủ với bên cho vay về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản vay, khoản phát hành trái phiếu trong trường hợp bên vay không thực hiện được đầy đủ nghĩa vụ nợ đến hạn.

Về bản chất, Chính phủ sẽ là bên chịu rủi ro tín dụng cuối cùng và duy nhất khi xảy ra sự kiện bảo lãnh. Do đó, Luật Quản lý nợ công đã ngày càng hoàn thiện quy định cụ thể về điều kiện cấp bảo lãnh Chính phủ, không khuyến khích các trường hợp đặc thù, để tăng cường kiểm soát rủi ro tín dụng, bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia.

Tuy nhiên, Luật Quản lý nợ công không hạn chế về thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp, hình thức đầu tư hay lĩnh vực đầu tư. Doanh nghiệp có dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, quyết định đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Luật Đầu tư và Luật Đầu tư công, đáp ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của Luật Quản lý nợ công đều được Chính phủ xem xét cấp bảo lãnh Chính phủ theo hạn mức bảo lãnh Chính phủ trong từng giai đoạn 1 năm/5 năm đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Điều kiện doanh nghiệp được cấp bảo lãnh “không bị lỗ trong 3 năm liền kề gần nhất theo báo cáo kiểm toán, trừ các khoản lỗ do thực hiện chính sách của Nhà nước được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt” là một trong những điều kiện cơ bản và quan trọng nhất khi đánh giá sức khỏe tài chính của doanh nghiệp để kiểm soát rủi ro tín dụng, bảo đảm an toàn nợ công.

Tuy nhiên, do pháp luật hiện hành không có đầy đủ quy định để xác định “các khoản lỗ do thực hiện chính sách của Nhà nước được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt”, cùng với việc sửa đổi điểm đ khoản 3 Điều 36 (điều kiện được vay lại), Chính phủ đề xuất sửa đồng bộ điều kiện cấp bảo lãnh Chính phủ của Luật Quản lý nợ công hiện hành theo hướng áp dụng quy định tương tự đối với doanh nghiệp được cấp bảo lãnh. Theo đó, doanh nghiệp “không bị lỗ trong 3 năm liền kề gần nhất theo báo cáo kiểm toán, trừ trường hợp doanh nghiệp được một trong các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế xếp hạng tín nhiệm ở mức ngang bằng hoặc thấp hơn một bậc so với xếp hạng tín nhiệm quốc gia” để vừa bảo đảm tính khả thi vừa bảo đảm kiểm soát rủi ro tín dụng, bảo đảm an toàn nợ công.

Luật có hiệu lực thi hành từ 1/1/2026./.