Mỗi năm mất 34.000ha đất lúa Hạn chế chuyển đổi đất lúa sang đất phi nông nghiệp

44% diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã bị thoái hoá

Tại Diễn đàn “Sức khỏe đất trồng lúa - Nền tảng phát triển xanh và bền vững” do Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 29/10, ông Vũ Năng Dũng - Chủ tịch Hội Khoa học đất Việt Nam nhấn mạnh, đất là nguồn tài nguyên quý của quốc gia, đóng vai trò quyết định trong đảm bảo an ninh lương thực và phát triển ngành nông nghiệp cũng như các ngành kinh tế khác bền vững. Năm 2023, diện tích đất trồng lúa chiếm 33,7% tổng diện tích đất canh tác, gắn với việc làm và đời sống của 61,9% dân số nông thôn.

Theo ông Dũng, sản xuất lúa gạo không chỉ đảm bảo an ninh lương thực mà còn góp phần ổn định xã hội, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam thông qua xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, thâm canh cao và sử dụng vật tư nông nghiệp chưa hợp lý, một bộ phận đất lúa đang bị suy thoái, nhiều vùng đất bị chua, nghèo dinh dưỡng, độ phì giảm, dẫn đến năng suất không ổn định.

Đất lúa khỏe: Nền tảng phát triển xanh và bền vững
Chủ tịch Hội Khoa học đất Việt Nam Vũ Năng Dũng phát biểu tại diễn đàn.

Xuất khẩu nông sản hiện nay chuyển từ số lượng sang chất lượng. Để nâng cao chất lượng nông sản, đặc biệt là gạo xuất khẩu, cần xây dựng chiến lược dài hạn phục hồi sức khỏe đất. Khi đất khỏe, sản phẩm nông nghiệp sẽ đạt chuẩn cao hơn, đáp ứng nhu cầu khắt khe của thị trường xuất khẩu, góp phần nâng cao vị thế nông sản Việt Nam trên thế giới. Vì vậy, phục hồi và duy trì độ phì nhiêu của đất lúa cần được xem là chiến lược lâu dài, tác động tích cực đến tính chất lý, hóa và sinh học của đất, làm nền tảng cho sản xuất lúa bền vững.

Để làm đất khỏe, cần thay đổi tư duy sản xuất, hướng tới canh tác bền vững, sử dụng hợp lý vật tư nông nghiệp, áp dụng các biện pháp cải tạo và phục hồi độ phì nhiêu; giống như con người muốn khỏe, đất cũng cần được hiểu rõ tình trạng sức khỏe để "bồi bổ" đúng cách.

Theo báo cáo của Viện Thổ nhưỡng nông hóa, Việt Nam hiện có khoảng 3,9 triệu ha đất trồng lúa, song 44% diện tích đất sản xuất nông nghiệp đã bị thoái hoá, chủ yếu do xói mòn, mặn hoá, phèn hoá và suy giảm độ phì. Đặc biệt, các vùng đồng bằng sông Cửu Long đang chịu ảnh hưởng mạnh từ biến đổi khí hậu và thay đổi nguồn nước từ thượng nguồn sông Mê Kông.

Tại diễn đàn, đồng tình với ý kiến của Hội Khoa học đất Việt Nam, ông Trần Minh Tiến - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam kiêm Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng nông hoá cho biết, các yếu tố hạn chế năng suất lúa hiện nay không chỉ nằm ở giống hay phân bón, mà xuất phát từ chất lượng, dinh dưỡng đất giảm.

Phân tích các nguyên nhân tác động đến chất lượng đất, ông Tiến cho rằng, về nguyên nhân khách quan gồm biến đổi khí hậu (nước biển dâng, hạn hán, lũ lụt) và phần nào bắt nguồn từ hoạt động con người. Về nguyên nhân chủ quan là do sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật không hợp lý, canh tác quá mức, thiếu biện pháp cải tạo đất, dẫn đến mất cân bằng dinh dưỡng và giảm khả năng sinh trưởng.

Thiết lập hệ thống "bác sỹ đất"

Trước thực trạng đó, ông Trần Minh Tiến đề xuất, thời gian tới cần áp dụng giải pháp đồng bộ theo từng loại đất. Với đất mặn, giải pháp bao gồm quản lý nước hợp lý, bón phân cân đối, tận dụng rơm rạ, sử dụng giống chịu mặn và luân canh cây trồng. Đất phèn cần bổ sung vôi, kết hợp quản lý nước và bón hợp lý, cân đối phân hữu cơ - vô cơ. Trong khi đó, đất phù sa và đất xám bạc màu được cải tạo bằng quản lý nước, bón phân cân đối, tái sử dụng rơm rạ và luân canh cây trồng. Quản lý chất lượng đất và hướng dẫn sử dụng phân bón trực tuyến cũng cần áp dụng mạnh mẽ.

"Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam đang hướng tới việc thiết lập hệ thống "bác sỹ đất" để hỗ trợ nông dân trong quản lý và cải tạo đất nhằm bảo đảm sản xuất lúa bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu và áp lực thâm canh ngày càng tăng”- ông Tiến cho hay.

Ông Võ Quang Minh đến từ Hội Khoa học đất Việt Nam cũng cho rằng, để quản lý khai thác tài nguyên đất lúa bền vững, cần có sự đồng bộ các giải pháp về kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái. Theo đó, chiến lược sử dụng đất lúa bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long cần dựa trên nhiều trụ cột. Trước hết là tái cơ cấu ngành lúa gạo, giảm diện tích lúa độc canh, phát triển mô hình xen canh, đa canh, tăng cường sản xuất lúa chất lượng cao và áp dụng khoa học công nghệ, nông nghiệp thông minh.

Bên cạnh đó, liên kết chuỗi giá trị và thị trường là giải pháp then chốt để xây dựng chuỗi giá trị lúa gạo bền vững và phát triển thương hiệu gạo Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời, quản lý nước hiệu quả và bảo vệ đất phù sa, phát triển sinh kế đa dạng cho nông dân thông qua chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và đào tạo kỹ năng sản xuất.

Đất lúa khỏe: Nền tảng phát triển xanh và bền vững
Đất lúa khỏe: Nền tảng phát triển xanh và bền vững. Ảnh minh họa

“Kế hoạch quản lý, khai thác tài nguyên đất lúa nên triển khai theo 5 bước: xác định sứ mệnh sử dụng đất lúa; phân tích SWOT; đặt mục tiêu; xây dựng các chiến lược liên quan và theo dõi, đánh giá kế hoạch khai thác, sử dụng đất lúa bền vững. Nếu biết cách xây dựng kế hoạch chiến lược hiệu quả, chúng ta sẽ tận dụng được các cơ hội, phát huy điểm mạnh và hạn chế điểm yếu của quá trình quản lý, từ đó nâng cao kết quả thực hiện quản lý, khai thác tài nguyên đất bền vững, kể cả trong các lĩnh vực khác”- ông Minh khuyến nghị.

Chia sẻ bên lề diễn đàn, bà Nguyễn Thị Thu Hương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Bộ Nông nghiệp và Mội trường cho hay, dù năng suất hiện chưa giảm mạnh, nhưng sự suy thoái đất đang làm gia tăng chi phí sản xuất và ảnh hưởng lâu dài tới an ninh lương thực. Đây là thời điểm cần thay đổi tư duy từ sử dụng đất sang nuôi dưỡng và cải tạo đất, đồng thời đặt nền tảng cho một nền nông nghiệp phát thải thấp, có trách nhiệm với môi trường và xã hội./.

Hiện Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang xây dựng các chương trình truyền thông và tài liệu tập huấn chuyên biệt cho từng đối tượng, giúp nông dân, cán bộ khuyến nông và quản lý địa phương hiểu rõ hơn về khái niệm “sức khỏe đất”. Khi người nông dân hiểu được giá trị của đất và chủ động thay đổi trong từng hành động nhỏ hàng ngày, những khẩu hiệu và chiến dịch sẽ biến thành hành động cụ thể, giúp duy trì sức khỏe đất một cách bền vững.