Bước tiến quan trọng về khuôn khổ pháp lý
Nghị định 167/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 08/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kiểm tra sau thông quan. Các quy định mới không chỉ nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, mà còn siết chặt các hoạt động quản lý, kiểm tra trở thành công cụ đắc lực trong cuộc chiến chống buôn lậu, gian lận thương mại, góp phần bảo vệ nguồn thu ngân sách nhà nước và xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh.
![]() |
| Công chức Chi cục Kiểm tra sau thông quan thực hiện kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp. Ảnh: Hà Thái |
Nghị định 167 đã bổ sung quy định rõ hơn về đối tượng chịu sự kiểm tra và giám sát hải quan, mở rộng phạm vi quản lý đối với hàng hóa, phương tiện vận tải, chứng từ liên quan và đặc biệt là hàng hóa nhập khẩu phục vụ hoạt động gia công, sản xuất xuất khẩu đang lưu giữ tại cơ sở sản xuất. Đây được xem là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan hải quan chủ động kiểm soát dòng hàng hóa sau thông quan, hạn chế tình trạng lợi dụng chính sách để gian lận, trốn thuế hoặc chuyển tải bất hợp pháp.
Một điểm đáng chú ý là quy định mới về tần suất kiểm tra sau thông quan đối với doanh nghiệp ưu tiên. Thay vì kiểm tra theo từng vụ việc, cơ quan hải quan sẽ đánh giá rủi ro tổng thể và chỉ kiểm tra tại trụ sở doanh nghiệp tối đa một lần trong 36 tháng, nếu không có dấu hiệu vi phạm. Điều này vừa giảm áp lực hành chính vừa khuyến khích doanh nghiệp nâng cao hệ thống tuân thủ.
| Công cụ trọng yếu để phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật hải quan và thuế Nghị định 167 tiếp tục khẳng định kiểm tra sau thông quan là công cụ trọng yếu để phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật hải quan và thuế. Thẩm quyền kiểm tra được phân cấp rõ cho Cục trưởng Cục Hải quan, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm tra sau thông quan và Chi cục trưởng Chi cục Hải quan khu vực. Việc lựa chọn doanh nghiệp, nội dung và phương pháp kiểm tra dựa trên quản lý rủi ro, giúp tập trung nguồn lực vào các đối tượng nguy cơ cao, đồng thời giảm phiền hà cho các doanh nghiệp tuân thủ tốt. |
Ghi nhận tại Công ty Khoa học kỹ thuật Goertek Vina, kim ngạch xuất nhập khẩu mỗi năm lên tới hàng tỷ USD với trên 100.000 tờ khai hải quan. Với tần suất đó, việc được công nhận là doanh nghiệp ưu tiên trong lĩnh vực hải quan đã giúp công ty bớt nhiều thủ tục hành chính. Doanh nghiệp cho rằng, việc sửa đổi, bổ sung các điều kiện áp dụng chế độ doanh nghiệp ưu tiên của Nghị định 167 không ảnh hưởng đến hoạt động, ngược lại tạo cơ hội để doanh nghiệp tự hoàn thiện quy trình và nâng cao mức độ tuân thủ.
Bà Nguyễn Thị Ánh Nguyệt - Trưởng bộ phận xuất nhập khẩu, Công ty Khoa học kỹ thuật Goertek Vina cho biết, các điều kiện mới liên quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ, an ninh hàng hóa, an ninh vận tải, an ninh công nghệ thông tin, an ninh nhân sự và an ninh đối tác thương mại là xu thế tất yếu của quản lý hiện đại và không gây khó khăn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp đã căn cứ quy định mới để rà soát mô hình hoạt động, chuỗi cung ứng và tình trạng tuân thủ pháp luật để tiếp tục đáp ứng và hưởng ưu đãi từ chế độ ưu tiên.
Xây quy trình mới chuyên nghiệp hơn
Với xu hướng chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tỷ lệ doanh nghiệp được hưởng chế độ ưu tiên về kiểm tra thủ tục hải quan đang gia tăng, trong khi công tác kiểm tra sau thông quan ngày càng được chú trọng. Từ đầu năm đến nay, ngành Hải quan đã thực hiện trên 1.000 cuộc kiểm tra sau thông quan, thu ngân sách trên 1.600 tỷ đồng.
Theo ông Lê Đức Trung - Phó Đội trưởng Đội Phúc tập và Kiểm tra sau thông quan, Chi cục Hải quan khu vực I, lực lượng hải quan tập trung vào các chuyên đề có dấu hiệu rủi ro cao. Sau mỗi cuộc kiểm tra, cơ quan hải quan đều tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm để tham mưu lãnh đạo có biện pháp chấn chỉnh hiệu quả, kịp thời. Mục tiêu là vừa hỗ trợ doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, vừa tạo thuận lợi thương mại và thu hút đầu tư.
Triển khai Nghị định 167, Cục Hải quan xây dựng quy trình kiểm tra sau thông quan mới theo hướng chuyên nghiệp hơn, khắc phục bất cập của quy trình cũ. Theo đó, kiểm tra sau thông quan và doanh nghiệp ưu tiên được tích hợp trong một kế hoạch, xây dựng theo chuyên đề theo quý thay vì kiểm tra đơn lẻ từng doanh nghiệp như trước.
Ông Đặng Phương Thủy - Trưởng phòng 2, Chi cục Kiểm tra sau thông quan, Cục Hải quan cho biết, công chức phải thu thập dữ liệu từ các hệ thống lớn và nhiều nguồn độc lập để nhận diện dấu hiệu rủi ro và chuyển hóa thành tiêu chí đưa vào hệ thống phân tích của ngành. Từ đó, hệ thống sẽ sàng lọc ra danh sách doanh nghiệp có rủi ro và đưa vào kế hoạch kiểm tra theo quý. Kết quả của một chuyên đề có thể đánh giá toàn diện rủi ro trong toàn ngành, làm cơ sở kiến nghị sửa đổi chính sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Quy trình mới hướng đến minh bạch, đơn giản thủ tục, quy rõ trách nhiệm của từng cấp trong toàn bộ hoạt động, nhằm ngăn chặn nhũng nhiễu, tiêu cực; đồng thời bổ sung hướng dẫn xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm để nâng cao hiệu quả đấu tranh với các hành vi vi phạm.
| Để kiểm tra sau thông quan không chỉ là khâu “bắt lỗi” Cải cách kiểm tra sau thông quan đang trở thành một trong những mảnh ghép quan trọng nhất trong quá trình hiện đại hóa hải quan. Trong bối cảnh Việt Nam chuyển mạnh sang mô hình thông quan tập trung và ứng dụng công nghệ số sâu rộng, Chi cục Kiểm tra sau thông quan (Cục Hải quan) đã đề xuất sửa đổi, bổ sung hàng loạt nội dung trong dự thảo Luật Hải quan sửa đổi. 8 năm sau khi Luật Hải quan 2015 được triển khai, thực tiễn đã cho thấy quy trình kiểm tra sau thông quan cần thay đổi để phù hợp hơn với tốc độ thương mại, mức độ phức tạp của chuỗi cung ứng và yêu cầu quản lý trong kỷ nguyên số. Vì vậy, Chi cục đề xuất sửa đổi 7 điều của luật, trong đó có những nội dung có tính “căn cơ” như bổ sung quy định về phúc tập và coi đây là một nghiệp vụ chính thức thuộc quy trình kiểm tra sau thông quan. Điểm mới đáng chú ý là đề xuất tăng thời gian kiểm tra từ 10 lên 15 ngày - con số tưởng nhỏ, nhưng phù hợp với xu hướng tiếp cận kiểm tra theo chiều sâu, có đối chiếu, phân tích và đánh giá kỹ lưỡng bằng dữ liệu. Một thay đổi mang tính phương pháp là việc bổ sung hình thức “khảo sát” và “đề cương khảo sát”. Trước khi kiểm tra chính thức, cơ quan hải quan sẽ thu thập và phân tích thông tin dữ liệu lớn, qua đó nhận diện rủi ro, xác định dấu hiệu vi phạm. Điều này chấm dứt tình trạng kiểm tra dàn trải, vừa mất nguồn lực vừa gây phiền hà cho doanh nghiệp. Một điểm tiến bộ khác là xây dựng “Biên bản kiểm tra sau thông quan” - văn bản tổng hợp duy nhất ghi nhận nội dung, quá trình và ý kiến giải trình của doanh nghiệp. Nhìn rộng hơn, các đề xuất sửa đổi này đang bám sát yêu cầu trong nhiều nghị quyết lớn của Đảng về cải cách thể chế, chuyển đổi số, minh bạch hóa thủ tục và giảm chi phí cho doanh nghiệp. Khi thủ tục được chuẩn hóa và minh bạch, doanh nghiệp tuân thủ tốt sẽ được hưởng lợi, còn những hành vi gian lận, lợi dụng thông thoáng chính sách sẽ bị phát hiện nhanh hơn.
|



