Khi trình Quốc hội ngày 17/11, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, Luật Dự trữ Quốc gia (sửa đổi) được xây dựng là cần thiết, cấp bách là để thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần quan trọng trong việc khắc phục những hạn chế bất cập hiện nay và đáp ứng yêu cầu đặt ra đối với lĩnh vực dự trữ quốc gia trong tình hình mới.
Bố cục của luật gồm 6 chương, 36 điều, giảm 30 điều so với Luật Dự trữ Quốc gia 2012, sửa đổi hoàn thiện 31 điều và bổ sung 5 điều.
![]() |
| Những thay đổi trong Luật Dự trữ quốc gia cho thấy tư duy quản lý dự trữ được mở rộng từ cách tiếp cận dự trữ truyền thống sang cấu trúc dự trữ linh hoạt. Ảnh: Hà Minh |
Đưa sản phẩm công nghệ cao vào dự trữ chiến lược
Một nội dung mới quan trọng của Luật là bổ sung mục tiêu dự trữ quốc gia, dự trữ chiến lược để bảo đảm tự chủ chiến lược quốc gia nhằm huy động, khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế là công cụ điều tiết thị trường để bảo đảm nền kinh tế vận hành ổn định, hiệu quả theo quy luật thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đó, Luật bổ sung nhiều nội dung mới về quản lý sử dụng hàng dự trữ chiến lược. Theo đó, Luật quy định những nội dung mang tính cơ chế nguyên tắc về nhập xuất, mua bán, bảo quản, cất giữ hàng dự trữ chiến lược và giao Chính phủ quy định cụ thể trong từng thời kỳ để bảo đảm tính linh hoạt phù hợp với tình hình thực tế.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Luật đã được chỉnh lý về nguyên tắc quản lý hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược thành hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược phải được quản lý chặt chẽ, an toàn, bí mật theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, không để thất thoát, lãng phí, chủ động đáp ứng kịp thời mục tiêu, yêu cầu của dự trữ quốc gia.
| Tăng tính minh bạch, kỷ luật và kỷ cương trong quản lý dự trữ quốc gia Ở góc độ thể chế, Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đồng bộ hóa hệ thống pháp luật liên quan đến ngân sách, phòng thủ dân sự và tình trạng khẩn cấp. Việc làm rõ thẩm quyền xuất cấp hàng dự trữ, xác định chi dự trữ quốc gia là nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước và quy định rõ trách nhiệm cá nhân, tổ chức khi để xảy ra sai phạm góp phần tăng tính minh bạch, kỷ luật và kỷ cương trong quản lý dự trữ quốc gia, đáp ứng yêu cầu quản trị hiện đại trong bối cảnh rủi ro ngày càng phức tạp. |
Đặc biệt, Luật đã được hoàn chỉnh để quy định về dự trữ chiến lược đối với tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản quan trọng và tài nguyên số. Theo đó, hàng dự trữ chiến lược bao gồm: vật tư, thiết bị, hàng hóa; tài nguyên; khoáng sản chiến lược, quan trọng; năng lượng quốc gia; sản phẩm công nghệ cao do Nhà nước quản lý.
Trong nội dung về phạm vi dự trữ chiến lược, Luật không đặt vấn đề dự trữ tiền và ngoại tệ vì đã được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân hàng và pháp luật khác có liên quan. Đồng thời, Luật quy định nguyên tắc chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế, trao đổi, chia sẻ nguồn lực trong hoạt động dự trữ quốc gia.
Để khuyến khích xã hội hóa dự trữ quốc gia, Luật đã quy định việc thực hiện xã hội hóa thông qua hoạt động nhập mua, cất giữ từ nguồn hợp pháp tại đơn vị, doanh nghiệp và được nhà nước hỗ trợ các khoản chi phí quản lý bảo quản thuế, lãi suất và các khoản hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật. Đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp tham gia dự trữ chiến lược được ưu đãi về thuế, tín dụng và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ trong từng thời kỳ; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các thành phần tham gia dự trữ chiến lược.
Về cơ chế mua bán, Luật cũng quy định mua bán hàng dự trữ chiến lược có sử dụng nguồn ngân sách nhà nước và nguồn ngoài ngân sách nhà nước được thực hiện theo cơ chế thỏa thuận, tự nguyện, hợp đồng. Đối với việc mua bán hàng dự trữ chiến lược từ nguồn hợp pháp của đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp tự thực hiện, Nhà nước sẽ hỗ trợ chi phí quản lý, bảo quản và các khoản hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.
Ứng dụng công nghệ để khắc phục những bất cập truyền thống
Luật cũng đã được chỉnh lý quy định về chính sách của Nhà nước đối với dự trữ quốc gia thành Nhà nước ưu tiên đầu tư nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực dự trữ quốc gia để hiện đại hóa hoạt động dự trữ quốc gia.
Bên cạnh đó, Luật đã cắt giảm tối đa các thủ tục không cần thiết, không rõ thẩm quyền và không quy định thêm. Đồng thời, phân cấp phân quyền mạnh mẽ triệt để về ban hành danh mục hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược, quyết định nhập xuất hàng dự trữ quốc gia, quy định về bảo quản định mức kinh tế kỹ thuật xuất nhập hàng dự trữ quốc gia.
Luật bỏ yêu cầu hàng dự trữ quốc gia phải được cất giữ riêng, sửa đổi phương thức quản lý từ việc ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hàng dự trữ quốc gia thành quy định về bảo quản hàng dự trữ quốc gia, bảo đảm đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi khi tổ chức thực thi pháp luật.
Chính phủ cũng cho biết sẽ nghiên cứu ý kiến về thí điểm mô hình dự trữ quay vòng khi xây dựng nghị định hướng dẫn, để đảm bảo tính khả thi hiệu quả, tránh lãng phí ngân sách nhà nước. Ngoài ra, Luật mới kế thừa và giữ nguyên quy định hiện hành về chế độ chính sách đối với người làm công tác dự trữ quốc gia, không bổ sung các loại phụ cấp mới.
Những thay đổi trong Luật cho thấy tư duy quản lý dự trữ đã được mở rộng từ cách tiếp cận dự trữ truyền thống sang một cấu trúc dự trữ linh hoạt, gắn với yêu cầu ứng phó rủi ro tổng hợp, từ thiên tai, biến đổi khí hậu đến các cú sốc về kinh tế, năng lượng và chuỗi cung ứng toàn cầu
Việc bổ sung và làm rõ khái niệm dự trữ chiến lược, bao gồm cả tài nguyên khoáng sản quan trọng, năng lượng quốc gia và sản phẩm công nghệ cao, cho thấy Luật đã tiệm cận hơn với yêu cầu bảo đảm an ninh kinh tế trong dài hạn. Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược gia tăng và chuỗi cung ứng trên phạm vi toàn cầu ngày càng chịu ảnh hưởng nhiều từ tác động chính trị, dự trữ quốc gia không chỉ là công cụ ứng phó tình huống khẩn cấp mà còn trở thành một yếu tố cấu thành năng lực tự chủ của nền kinh tế
Luật sửa đổi cũng tạo dấu mốc quan trọng trong việc thúc đẩy xã hội hóa hoạt động dự trữ quốc gia. Việc mở rộng không gian tham gia của doanh nghiệp, đi kèm các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và hỗ trợ chi phí bảo quản, phản ánh sự chuyển dịch sang mô hình huy động nguồn lực xã hội có kiểm soát. Qua đó, không chỉ góp phần giảm áp lực lên ngân sách nhà nước mà còn khai thác được năng lực lưu trữ, logistics và quản trị hàng hóa ngày càng chuyên nghiệp của khu vực tư nhân
Bên cạnh đó, việc nhấn mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong quản lý dự trữ cho thấy Luật sẽ giải quyết hiệu quả những hạn chế, bất cập của công tác dự trữ truyền thống như chi phí bảo quản cao, nguy cơ hao hụt, thất thoát và thiếu tính linh hoạt. Khi hệ thống thông tin và dữ liệu được kết nối đồng bộ, dự trữ quốc gia sẽ từng bước trở thành một công cụ điều hành chủ động, hỗ trợ dự báo và ra quyết định chính sách kịp thời.
Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2026. Riêng quy định về dự trữ chiến lược có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2027.


