Dư địa cung đang vượt xa cầu

Theo Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), thị trường lúa gạo thế giới cũng như trong nước từ đầu tháng 9/2025 tới nay đã trải qua một thời kỳ ảm đạm khi nguồn cung tăng mạnh, các nước sản xuất lớn đồng loạt được mùa, Báo cáo mới nhất của Hội đồng Ngũ cốc Quốc tế (IGC) cho thấy, nguồn cung gạo toàn cầu trong niên vụ 2025 - 2026 dự kiến đạt mức kỷ lục 728 triệu tấn, tăng 1,5% so với vụ trước.

Dư cung, giá gạo đầu năm 2026 khó tạo
Thị trường từ tháng 8 đến tháng 11/2025 chứng kiến mức giảm giá sâu trên diện rộng. Ảnh: Hà Minh

Trong đó, Ấn Độ đóng góp gần 200 triệu tấn gạo, tăng mạnh 4,4% so với năm ngoái. Tồn kho toàn cầu được ước tính tăng 5,2%, đạt khoảng 186 triệu tấn, dấu hiệu rõ ràng cho thấy dư địa cung đang vượt xa cầu. Trong khi nhu cầu nhập khẩu lại chững lại rõ rệt tại một số quốc gia hàng đầu như Philippines và Indonesia. Giá gạo 5% tấm của Thái Lan có những lúc đã giảm xuống thấp nhất gần 20 năm với mức 337 USD/tấn trong tháng 10, sau đó hồi phục trong tháng 11, nhưng vẫn ở mức thấp với giá 375 USD/tấn. Trong khi đó, gạo 5% tấm Ấn Độ giảm một mạch xuống mức thấp nhất 10 năm trong tháng 11, ở mức 350-360 USD/tấn. Còn Việt Nam, giá gạo 5% tấm xuất hiện xu hướng giảm từ tháng 8 xuống mức thấp nhất trong vòng 5 năm, giao động ở mức 350 -360 USD/tấn trong tháng 11.

Tại thị trường trong nước, Phillipines - quốc gia nhập khẩu hơn 2,8 triệu tấn gạo từ Việt Nam, chiếm hơn 85% sản lượng nhập khẩu gạo của nước này, thông báo ngừng nhập khẩu cho đến cuối năm đã áp lực mạnh đến giá gạo nội địa, đặc biệt ở nhóm gạo trắng thông dụng. Thị trường từ tháng 8 đến tháng 11 chứng kiến mức giảm giá sâu trên diện rộng. Nhóm gạo trắng thông dụng (IR50404, OM380, CL555) mất giá mạnh nhất, "bốc hơi" từ 9% đến gần 17% giá trị, đẩy giá trần về đáy 7.500 - 7.900đ/kg. Nhóm thơm (DT8, OM18) cũng giảm khoảng 10%, trượt từ đỉnh 10.200đ xuống 9.200đ/kg. Riêng Japonica dù giảm chung cuộc gần 6% so với tháng 8, nhưng đã có nhịp hồi phục 4% từ đáy tháng 10 lên 13.000đ/kg.

Từ cuối quý I/2026 trở đi, thị trường có thể xuất hiện lực hỗ trợ tốt hơn

Ông Nguyễn Đức Dũng cho rằng, từ cuối quý I/2026 trở đi, thị trường gạo có thể xuất hiện lực hỗ trợ tốt hơn nếu các nước nhập khẩu bắt đầu tái bổ sung kho dự trữ sau thời gian dài kìm nén nhu cầu.

Đánh giá thị trường gạo những tháng đầu năm 2026, ông Nguyễn Đức Dũng - Phó Tổng Giám đốc MXV cho rằng, bước sang những tháng đầu năm 2026, có thể thấy thị trường gạo thế giới nhiều khả năng vẫn tiếp tục xoay quanh câu chuyện dư cung, tình trạng đã kéo dài từ cuối năm 2025 cho đến nay. Các tổ chức, cơ quan lớn như Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) hay Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đều chung một nhận định rằng sản lượng toàn cầu của vụ 2025 - 2026 vẫn tăng đều, lên tới 556,4 triệu tấn, trong khi tồn kho cuối vụ duy trì ở mức rất cao, từ 186 đến hơn 215 triệu tấn. Tổng nguồn cung được IGC ước tính chạm ngưỡng kỷ lục 728 triệu tấn, tức là tăng thêm 1,5% so với mùa trước. Dù nhu cầu thế giới vẫn tăng, nhưng mức tăng đó không đủ mạnh để “ăn” hết lượng gạo đang chất trong kho của các nước xuất khẩu lớn.

Khả năng phục hồi mạnh trong quý I/2026 là khá hạn chế

Theo ông Dũng, nhìn vào quý I năm tới, hoạt động giao dịch sẽ vẫn khá lặng lẽ, do Philippines - thị trường nhập khẩu quan trọng nhất châu Á chỉ mở cửa ngắn hạn vào tháng 1 để mua khoảng 300.000 tấn rồi lại tiếp tục tạm dừng nhập từ tháng 2 đến tháng 4. Trong khi đó, Ấn Độ dự kiến đẩy mạnh xuất khẩu lên hướng mục tiêu 30 triệu tấn, tạo thêm áp lực lên giá, nhất là phân khúc gạo trắng phổ thông. Thái Lan vẫn giữ nhịp xuất khẩu ổn định, nhưng giá đã rơi xuống vùng thấp nhất gần 20 năm. Bộ ba Thái Lan - Ấn Độ - Việt Nam đều đang chào bán gạo ở vùng giá thấp nhất nhiều năm nên khả năng phục hồi mạnh trong quý I/2026 là khá hạn chế.

Cho nên, trong nước, thị trường gạo Việt Nam cũng sẽ trải qua những tháng đầu năm với tâm thế thận trọng hơn mọi năm. 3 tháng cuối 2025 đã đánh dấu một đợt giảm giá diện rộng, nhất là khi Philippines chiếm tới hơn 85% tổng nhập khẩu gạo từ Việt Nam bất ngờ dừng mua đến hết năm. Các loại gạo trắng thông dụng như IR50404, OM380 hay CL555 mất từ 9 đến 17% giá trị; nhóm gạo thơm giảm quanh 10%; còn Japonica dù có nhịp hồi từ đáy tháng 10 nhưng vẫn đang thấp hơn mặt bằng quý III. Đà giảm này có thể còn kéo sang những tuần đầu quý I năm tới, trước khi thị trường dần tìm lại sự cân bằng khi Việt Nam bước vào thu hoạch vụ lớn nhất năm, vụ Đông - Xuân.

Về xuất khẩu, dù quý I thường là thời điểm tăng tốc nhờ nguồn cung dồi dào sau vụ mùa, nhưng nhu cầu từ các thị trường chủ lực như Philippines, Indonesia hay khu vực châu Phi lại chưa có dấu hiệu mạnh mẽ. Vì vậy, giá chào bán gạo 5% tấm của Việt Nam dự kiến vẫn chỉ dao động quanh 350-370 USD/tấn, phải cạnh tranh sát nút với Ấn Độ ở mức 350 - 360 USD/tấn và Thái Lan khoảng 360 - 375 USD/tấn.

“Nhu cầu phục hồi nhẹ từ Trung Quốc và một số nước châu Phi như Bờ Biển Ngà, Ghana, Mozambique... có thể mang lại chút lực đỡ, nhưng khó tạo nên những bước nhảy đột biến với biên độ tăng mạnh nhất dự kiến rơi vào các chủng loại gạo thơm dẻo chủ lực như OM5451, ĐT8, OM18 và Japonica” - ông Dũng nhận định.

Còn theo ông Trần Quốc Toản - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), xuất khẩu gạo năm 2026 sẽ chịu tác động từ các yếu tố như Philippines dự kiến quay trở lại nhập khẩu từ tháng 1/2026 mặc dù có sự thay đổi về thuế nhập khẩu gạo và có khả năng thay đổi quy định về nhập khẩu gạo nhưng là yếu tố thúc đẩy xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm tới.

Xuất khẩu gạo Việt 11 tháng giảm cả lượng và giá trị

Theo Cục Hải quan (Bộ Tài chính), trong 11 tháng năm 2025, xuất khẩu gạo đạt hơn 7,53 triệu tấn gạo với trị giá trên 3,85 tỷ USD, giá xuất khẩu bình quân đạt 511,09 USD/tấn; giảm 10,9% về lượng và giảm 27,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.

Trong đó Philippines vẫn là thị trường dẫn đầu với hơn 3,3 triệu tấn, chiếm hơn 40% tổng lượng xuất khẩu, song kim ngạch lại giảm tới 24,2%. Sau khi nhập lượng rất lớn vào năm ngoái, quốc gia này siết nhập khẩu liên tục trong 4 tháng gần đây, khiến nhịp giao dịch chững lại đột ngột và dòng chảy gạo Việt thay đổi.

Còn thị trường Indonesia cũng nhập gần 988.600 tấn, dù ổn định, song thị trường này không tạo được cú hích mới.

Trong khi đó lượng gạo xuất khẩu gia tăng tại các thị trường Ghana (tăng 52,64%), Trung Quốc (tăng 165,14%), Bangladesh (tăng gấp 238,48 lần) và Senegal (tăng khoảng 73 lần)…

Các chuyên gia cho rằng, doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng thương hiệu gạo chất lượng cao tại các thị trường giá trị. Bên cạnh đó, cần thận trọng trong giao dịch, tuân thủ chặt chẽ yêu cầu về chất lượng, kiểm dịch, mẫu mã, bao bì và lựa chọn đối tác uy tín. Trong bối cảnh thương mại toàn cầu còn nhiều biến động, việc nâng chuẩn chất lượng và tận dụng tốt FTA sẽ là chìa khóa để gạo Việt Nam gia tăng vị thế trong năm 2026.