Việt Nam liên tục gia tăng diện tích rừng

Với chiều dài hơn 80 năm phát triển, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã đi qua một hành trình gian nan, nhưng kiêu hãnh, từ khôi phục rừng sau chiến tranh, đến phát triển kinh tế rừng bền vững và hội nhập quốc tế.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị cho biết, lịch sử phát triển rừng Việt Nam từng trải qua giai đoạn suy giảm nghiêm trọng, từ 14,42 triệu ha rừng năm 1943 xuống còn 8,97 triệu ha năm 1990; tỷ lệ che phủ giảm sâu xuống còn 27,2% - mức thấp nhất trong lịch sử. Đây là thách thức lớn đòi hỏi quyết tâm chính trị mạnh mẽ, chính sách đồng bộ và sự tham gia, chung sức phục hồi rừng của toàn xã hội.

Lâm nghiệp ngày càng khẳng định là ngành kinh tế quan trọng
Việt Nam là một trong số rất ít nước có tốc độ tăng trưởng rừng ổn định và nhanh nhất thế giới. Ảnh: Nguyễn Quỳnh

Bằng những nỗ lực chưa từng có, từ năm 1991 đến nay, Việt Nam liên tục gia tăng diện tích rừng, tỷ lệ che phủ rừng thông qua các chương trình lớn như: Chương trình phủ xanh đất trống đồi núi trọc (Chương trình 327), Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (Chương trình 661), Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững (Chương trình 886 và 809).

Theo số liệu công bố hiện trạng rừng toàn quốc năm 2024, diện tích rừng đạt 14,87 triệu ha, tăng 5,41 triệu ha so với năm 1995; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42,03%, hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XIII đề ra và đảm bảo duy trì ổn định ngưỡng an toàn sinh thái quốc gia.

Trong suốt hành trình 80 năm vừa qua, ngành lâm nghiệp tự hào đã góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với niềm tin, khát vọng lớn lao, ngành lâm nghiệp quyết tâm đóng góp mạnh mẽ hơn nữa vào công cuộc xây dựng đất nước xanh - thịnh vượng - bền vững.

Ông Nguyễn Quốc Trị - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường

Đây là thành tựu đặc biệt xuất sắc của ngành lâm nghiệp từ năm 1995 đến nay, đưa Việt Nam là một trong số rất ít nước có tốc độ tăng trưởng rừng ổn định và nhanh nhất thế giới. Theo báo cáo đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu năm 2020 của Tổ chức Nông lương Liên Hợp quốc, trong khi diện tích rừng thế giới suy giảm mạnh, diện tích rừng trồng thấp thì Việt Nam đứng thứ 5 trong nhóm 10 quốc gia trên thế giới có diện tích rừng tăng cao nhất, có diện tích rừng thuộc nhóm hàng đầu châu Á và thế giới.

Từ thành công trong phục hồi rừng đã minh chứng mạnh mẽ cho hiệu quả của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi các cơ chế, chính sách để phát triển một nền lâm nghiệp hiện đại, bền vững và từng bước hội nhập quốc tế…

Thu hút phát triển kinh tế lâm nghiệp

Lâm nghiệp không chỉ là “lá chắn xanh”, mà còn là tài sản kinh tế vô giá. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của ngành giai đoạn 1990 - 1998 bình quân chỉ đạt 1,06%. Đến giai đoạn 1999 - 2009, giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng trưởng liên tục, bình quân đạt 2,85%/năm, gấp 2,7 lần so với giai đoạn 1990 - 1998.

Giai đoạn 2010 - 2015, giá trị sản xuất lâm nghiệp có tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,87%. Giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,94%, gấp 5,6 lần so với giai đoạn 1990 - 1998 và hơn 2 lần so với giai đoạn 1999 - 2009.

Giai đoạn 2021 - 2024, tốc độ tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp bình quân đạt trên 4,7%/năm; ước thực hiện giai đoạn 2021 - 2025 đạt khoảng 5%/năm, đạt mục tiêu của Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững.

Đặc biệt, phát triển kinh tế lâm nghiệp đã góp phần thu hút các tổ chức, cá nhân tích cực tham gia trồng rừng sản xuất, tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, chế biến như: Trước năm 2008, khai thác gỗ của cả nước chỉ đáp ứng 30% nhu cầu gỗ nguyên liệu cho chế biến lâm sản, phải nhập khẩu từ nước ngoài khoảng 70% gỗ nguyên liệu. Từ năm 2009 đến nay, nước ta hàng năm tăng sản lượng gỗ phục vụ cho chế biến lâm sản, giảm nhập gỗ từ nước ngoài. Sản lượng khai thác gỗ nguyên liệu từ rừng trồng tập trung trong nước giai đoạn 2021 - 2014 bình quân đạt 20,5 triệu m3/năm.

Ngoài ra, từ năm 2000 đến nay, chế biến gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt được những thành tựu rất ấn tượng, đáp ứng cơ bản tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Giá trị xuất khẩu gỗ và lâm sản giai đoạn 2021 - 2024 bình quân 16,2 tỷ USD/năm, trong đó, năm 2024 đạt giá trị cao kỷ lục là 17,35 tỷ USD. Năm 2025, tiếp đà thành công, ước giá trị xuất khẩu trên 18 tỷ USD. Trong nhiều năm, xuất khẩu lâm sản của Việt Nam luôn duy trì vị trí thứ 5 thế giới, thứ 2 châu Á, thứ 1 Đông Nam Á; sản phẩm gỗ Việt Nam đã có mặt trên thị trường của hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Như vậy, ngành công nghiệp chế biến gỗ trở thành hàng xuất khẩu chủ lực trong nhóm ngành hàng nông, lâm, thủy sản, đóng góp quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.

Cùng với nguồn thu từ khai thác gỗ, nguồn thu nhập khác từ rừng cũng ngày càng được mở rộng. Nổi bật là nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng - mô hình tiên phong trong huy động nguồn tài chính xanh. Giai đoạn 2011 - 2024, tổng thu dịch vụ môi trường rừng cả nước đạt 31.086 tỷ đồng, trong đó năm 2023 - 2024 có thêm nguồn thu từ dịch vụ hấp thụ và lưu trữ carbon rừng, thí điểm tại vùng Bắc Trung Bộ với 56,5 triệu USD, bước đầu đặt nền móng cho việc hình thành, thể chế hóa và phát triển nguồn thu này trong tương lai.

Nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng đã góp phần quản lý, bảo vệ hơn 7,45 triệu ha rừng, chiếm 53,5% tổng diện tích rừng toàn quốc; góp phần tăng thu nhập, ổn định sinh kế cho hàng trăm nghìn hộ dân.

Bên cạnh đó, "Ngoại giao lâm nghiệp" chính là sức mạnh mềm mới của Việt Nam. Việc tham gia chủ động vào các mạng lưới lâm nghiệp ASEAN và toàn cầu, thu hút nguồn lực từ REDD+, Quỹ khí hậu xanh và các dự án tài chính xanh đã, đang và sẽ tạo thêm sức mạnh để bảo vệ và phát triển rừng.

“Tấm hộ chiếu xanh” để đất nước hội nhập

Rừng Việt Nam không chỉ là tài sản quốc gia, mà còn là “tấm hộ chiếu xanh” để đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới “vì hành tinh thêm xanh”.

Ngày nay, trước biến đổi khí hậu toàn cầu, vai trò của rừng càng trở nên chiến lược. Mỗi cánh rừng không chỉ giữ đất, giữ nước, mà còn giữ lấy tương lai - là “tấm khiên xanh” bảo vệ an ninh môi trường, là “ngân hàng carbon” tự nhiên giúp Việt Nam thực hiện cam kết Net Zero 2050.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị, bước vào giai đoạn phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngành lâm nghiệp Việt Nam định hướng phát triển dựa trên ba trụ cột chiến lược.

Thứ nhất, tiếp tục bảo vệ và phát huy giá trị tài nguyên rừng quốc gia. Duy trì tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42-43%; tăng năng suất, chất lượng rừng; phát triển mạnh rừng gỗ lớn, rừng sản xuất tập trung…

Thứ hai, nâng tầm kinh tế lâm nghiệp. Phấn đấu đến năm 2030, giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 23 - 25 tỷ USD. Hình thành các khu lâm nghiệp công nghệ cao, các trung tâm chế biến gỗ quy mô khu vực. Phát triển dịch vụ môi trường rừng, đa dạng hóa mà mở rộng các nguồn thu, đặc biệt là dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các-bon; thúc đẩy trao đổi, chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và tín chỉ các-bon rừng. Đảm bảo nguồn thu tiền dịch vụ môi trường rừng tăng bình quân 5%/năm.

Thứ ba, tăng cường vai trò của rừng trong thích ứng và giảm nhẹ tác động của biến đổi khí hậu; nâng cao hiệu quả bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học và năng lực phòng hộ của rừng; tăng cường nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ của khoa học công nghệ trong quản lý tài nguyên rừng.