PV: Ngày 1/8, Hoa Kỳ công bố áp mức thuế đối ứng 20% đối với hàng hóa Việt Nam. Ông bình luận gì về thông tin này?

Ông Lê Duy Bình: Mức thuế đối ứng 20% được đánh giá là tích cực so với con số 46% dự kiến trước đây, tuy nhiên, vẫn cần phải xem xét kỹ hơn các điều kiện và ràng buộc kèm theo để đạt được mức thuế này. Vì vậy, cần phải đánh giá một cách thận trọng hơn khi chưa biết được những điều kiện liên quan đến mức thuế này, cũng như những mặt hàng nào, sản phẩm nào với các điều kiện như thế nào thì sẽ áp mức thuế này.

Trong bối cảnh hiện nay, mức thuế 20% cũng làm giảm bớt sức ép đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế của Việt Nam. So với mức thuế dự kiến ban đầu, mức thuế mới được công bố sẽ giúp tránh được một gánh nặng về thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời có thể đủ để duy trì sức cạnh tranh của hàng Việt trên thị trường Hoa Kỳ khi so sánh tương quan với mức thuế được công bố với các nền kinh tế khác.

Tuy không phải tất cả, nhưng nhiều doanh nghiệp dường như trút được một phần gánh nặng với mức thuế chính thức, dù rằng vẫn còn phải chờ đợi nhiều chi tiết của thoả thuận.

Bên cạnh đó, việc đạt được mức thuế 20% là kết quả của nỗ lực đặc biệt và tinh thần chủ động trong đàm phán của các cơ quan Chính phủ Việt Nam, cũng như sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, Hoa Kỳ và của nhiều chủ thể khác của nền kinh tế.

Mức thuế đối ứng 20%: Vẫn đủ để hàng Việt duy trì sức cạnh tranh
Ông Lê Duy Bình

Mức thuế mới được đánh giá là tín hiệu khả quan, giúp tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong thời gian tới. Đồng thời, mức thuế 20% này cũng như những nỗ lực chủ động, tích cực, linh hoạt, quyết tâm trong quá trình đàm phán cũng gửi những tín hiệu quan trọng về việc phải đánh giá lại chiến lược về xuất khẩu, cấu trúc hoạt động xuất nhập khẩu, hay hoạt động sản xuất phục vụ cho xuất khẩu và rộng hơn là tái cấu trúc lại mô hình tăng trưởng của cả nền kinh tế.

PV: Theo ông, việc áp thuế đối ứng 20% sẽ ảnh hưởng như thế nào đến kim ngạch xuất khẩu và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế Việt Nam?

Ông Lê Duy Bình: Như tôi chia sẻ ở trên, mức thuế 20% chưa được công bố đầy đủ, nên việc đánh giá tác động chưa thể rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh việc giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp xuất khẩu, mức thuế mới cũng hỗ trợ cho các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào các lĩnh vực nhằm gia tăng xuất khẩu của Việt Nam. Đầu tư của tư nhân trong nước và khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhờ đó có thể sẽ tiếp tục gia tăng.

Trước đây, mức thuế 46% được cho là khá cao và có thể khiến một số nhà đầu tư nước ngoài lo ngại; nhưng so sánh với các nền kinh tế khác đang thu hút FDI, mức thuế mới của Việt Nam ở mức tương đương hoặc thậm chí tốt hơn. Mức thuế 20% góp phần duy trì được sức hút về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài...

Bên cạnh đó, Việt Nam còn có nhiều lợi thế khác, đó là sự ổn định về chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, bằng các nỗ lực nhằm cải cách thể chế, cải cách môi trường kinh doanh, bằng cơ sở hạ tầng ngày một được hiện đại hóa, bằng nguồn nhân lực ngày được nâng cao. Đây là các yếu tố quan trọng đã, đang và tiếp tục củng cố niềm tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước và do vậy, Việt Nam sẽ tiếp tục khẳng định là điểm đến quan trọng của dòng vốn FDI.

Những khảo sát mới nhất gần đây về niềm tin kinh doanh của các hiệp hội doanh nghiệp FDI cho thấy, họ tiếp tục đặt niềm tin mạnh mẽ vào nền kinh tế Việt Nam và sẽ tiếp tục gia tăng đầu tư vào Việt Nam.

PV: Hoa Kỳ áp thuế đối ứng 20% nhằm tái cân bằng thương mại song phương. Việt Nam nên có chiến lược thương mại gì để giảm thiểu rủi ro từ các biện pháp phòng vệ thương mại trong tương lai, thưa ông?

Ông Lê Duy Bình: Cần thiết phải điều chỉnh mô hình xuất khẩu của Việt Nam, từ việc tập trung vào tăng trưởng kim ngạch sang việc nâng cao chất lượng và tính bền vững của hoạt động này. Điều đó đòi hỏi sự nỗ lực của cả doanh nghiệp, cơ quan quản lý, nhằm ứng phó với các rủi ro từ các biện pháp phòng vệ thương mại và xây dựng một mô hình xuất khẩu hiệu quả, bền vững hơn.

Mặc dù hoạt động xuất khẩu vẫn đóng vai trò quan trọng, nhưng mô hình hiện tại còn nhiều hạn chế. Cần phải có những điều chỉnh dần dần để nâng cao chất lượng của hoạt động xuất khẩu và nâng cao tính bền vững của một nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu.

Đối với phòng vệ thương mại hiện còn khá nhiều vấn đề. Khi xuất khẩu tăng nhanh, đặc biệt tập trung vào một số thị trường, doanh nghiệp dễ bị các nước áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, chẳng hạn kiện bán phá giá. Điều này cần được doanh nghiệp lưu ý và có các biện pháp phòng ngừa.

Câu chuyện thuế quan vừa qua cũng cho thấy, các doanh nghiệp cần chủ động điều chỉnh chiến lược sản xuất và kinh doanh. Đối sách phù hợp là tránh quá phụ thuộc vào một số thị trường, nghiên cứu các điều kiện về yêu cầu xuất xứ của các nguyên, nhiên liệu đầu vào của mặt hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều hơn các nguyên liệu đầu vào từ thị trường trong nước hoặc các đối tác phù hợp, chung tay phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước.

Cùng với đó, các doanh nghiệp làm ăn với các thị trường nước ngoài cũng phải chuẩn bị tâm thế là có thể phải đối diện với các vụ kiện chống bán phá giá vào bất kỳ thời điểm nào. Do vậy, doanh nghiệp cần chuẩn bị tốt hồ sơ, tài liệu để chứng minh không bán phá giá khi bị kiện. Việc chuẩn bị là rất là quan trọng. Nếu vướng vào những vụ kiện thì doanh nghiệp nên dành thời gian để hợp tác với những cơ quan điều tra về vụ kiện bán phá giá để cung cấp thông tin, từ đó mình tự bảo vệ mình.

Mặc khác, cơ quan quản lý cần hỗ trợ doanh nghiệp trong việc ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại, đồng thời xem xét điều chỉnh chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu bền vững.

PV: Xin cảm ơn ông!

Quá trình đàm phán vừa qua cho thấy sự chủ động, tích cực từ những người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Chính phủ để đảm bảo có được kết quả tích cực nhất. Điều đó cũng gửi đi một tín hiệu quan trọng về tinh thần đồng hành của Chính phủ với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước trước những khó khăn, thách thức của thị trường. Sự đồng hành đó đã và đang củng cố niềm tin của thị trường, của các nhà đầu tư, là yếu tố quan trọng để đảm bảo nguồn vốn đầu tư sẽ tiếp tục chảy vào nền kinh tế Việt Nam.