Trụ đỡ kinh tế trong thời kỳ đổi mới

Trước thời kỳ đổi mới, nền nông nghiệp Việt Nam chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, năng suất và sản lượng còn thấp. Tuy nhiên, chính sách khoán 10 (1988) cùng với các chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo bước ngoặt căn bản, đưa nông nghiệp trở thành trụ đỡ của nền kinh tế, đặc biệt trong những giai đoạn khó khăn.

Nhờ phát huy nội lực và đẩy mạnh cơ chế thị trường, Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực triền miên đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, thủy sản, rau quả... đều có vị thế cao trên thị trường quốc tế.

Nền tảng vững chắc cho tăng trưởng xanh và hội nhập quốc tế
Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (Cần Thơ) - chuyên xuất khẩu gạo sang thị trường Nhật Bản. Ảnh: Đức Thanh

Đến năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt mức cao kỷ lục 62,4 tỷ USD, tăng khoảng 42 lần so với thời kỳ đổi mới, khẳng định vai trò chủ lực của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Có đến 5 ngành hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD, gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản, rau quả, gạo và cà phê, vững chắc vị trí của Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu nông sản thế giới.

Như vậy, ngành không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, mà còn góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cân đối thương mại và an sinh xã hội.

Ngoài ra, trong tiến trình hội nhập sâu rộng, Việt Nam đã ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam… mở ra cơ hội lớn cho nông sản Việt Nam tiếp cận các thị trường có yêu cầu cao về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn môi trường.

Chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng hiện đại, giá trị cao

Những năm gần đây, ngành nông nghiệp đã chuyển hướng rõ nét từ phát triển theo chiều rộng sang chú trọng giá trị, chất lượng và tính bền vững. Cơ cấu sản xuất được điều chỉnh hợp lý hơn giữa trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và lâm nghiệp; ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới mô hình sản xuất được đẩy mạnh.

Các mô hình nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu, cùng các chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản đã phát huy hiệu quả rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp đã chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Nông - lâm - thủy sản xuất siêu gần 16 tỷ USD trong 9 tháng

Trong 9 tháng năm 2025, tốc độ tăng trưởng của ngành Nông nghiệp và Môi trường đạt 3,83%, các chỉ tiêu chủ yếu cơ bản hoàn thành và vượt kế hoạch. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đạt 52,31 tỷ USD, xuất siêu gần 16 tỷ USD, tiếp tục khẳng định vai trò “trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế”, đóng góp lớn vào cán cân thương mại quốc gia. Không chỉ nông nghiệp, công tác quản lý môi trường, khoáng sản, biển và hải đảo cũng có nhiều bước tiến quan trọng, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là một điểm sáng, góp phần làm thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn Việt Nam. Đến nay, hơn 75% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng gấp nhiều lần so với trước năm 2010. Đây là thành tựu quan trọng, khẳng định vai trò của chính sách đầu tư công, tín dụng ưu đãi và huy động nguồn lực xã hội trong phát triển nông nghiệp - nông thôn.

Cùng với phát triển nông nghiệp, lĩnh vực tài nguyên và môi trường ngày càng được quan tâm đúng mức, trở thành trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế bền vững. Ngành Tài nguyên và Môi trường được thành lập năm 2002, đã không ngừng hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đất đai, nước, khoáng sản, môi trường và khí tượng thủy văn.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và các chính sách liên quan đến tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, ứng phó biến đổi khí hậu được triển khai đồng bộ, bước đầu mang lại kết quả tích cực. Nhiều địa phương đã chủ động thực hiện phân loại rác tại nguồn, đầu tư xử lý chất thải, phục hồi hệ sinh thái, góp phần giảm thiểu ô nhiễm và nâng cao chất lượng môi trường sống.

Đặc biệt, sau cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050 tại COP26, ngành Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và triển khai hàng loạt kế hoạch hành động cụ thể trong việc giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất nông nghiệp, phát triển năng lượng sinh học và nông nghiệp hữu cơ. Đây là những bước đi quan trọng, khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu.

Hướng tới phát triển xanh và tăng trưởng hai con số

Đánh giá về chặng đường 80 năm nông nghiệp Việt Nam, TS. Đặng Kim Sơn - Viện Nghiên cứu thị trường và Thế chế nông nghiệp (Học viện Nông nghiệp Việt Nam) cho rằng, suốt 80 năm qua, nông nghiệp đã nổi lên trở thành lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội đóng góp lớn cho đất nước qua từng giai đoạn lịch sử.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong thời gian tới, ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục kiên định mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh, gắn với tăng trưởng xanh, chuyển đổi năng lượng và kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, ngành sẽ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới mô hình tăng trưởng và hoàn thiện thể chế quản lý tài nguyên - môi trường theo hướng minh bạch, hiệu quả, bền vững.

Mới đây, trong phiên thảo luận đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và dự kiến kế hoạch năm 2026 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng nhấn mạnh, giai đoạn 2026 - 2030 sẽ là thời kỳ bản lề để ngành Nông nghiệp và môi trường “vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển mới”, cùng cả nước thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số, hướng tới phát triển xanh, bền vững. Ngành đã đề ra 18 chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó mục tiêu tăng trưởng từ 3,5 - 4%/năm là một trong những trọng tâm quan trọng.

Cần tăng cường đầu tư cho nông nghiệp

Theo các chuyên gia, để đạt được các mục tiêu tăng trưởng cũng như phát triển bao trùm và bền vững, trong thời gian tới, Việt Nam cần tăng cường đầu tư cho nông nghiệp. Đồng thời, tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư công, tập trung vào các vùng và lĩnh vực có lợi thế, giá trị gia tăng cao, gắn với chuyển đổi xanh, đổi mới khoa học công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh, qua đó phát huy vai trò đòn bẩy của đầu tư công trong thu hút đầu tư tư nhân và nguồn lực xã hội.

Theo bà Lê Thị Hà Liên - Trường Chính sách công Crawford (Đại học Quốc gia Úc), để đạt được mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến 2030, tầm nhìn đến 2045, Việt Nam cần tiếp tục tăng đầu tư công trong lĩnh vực nông nghiệp giai đoạn tới. Nếu giai đoạn 2011 - 2020 đầu tư công trong nông nghiệp là 152.500 tỷ đồng, thì giai đoạn 2021 - 2030 cần tới 305.000 tỷ đồng (tức gấp đôi so với giai đoạn 2011 - 2020).

“Trong giai đoạn 2021 - 2025, đầu tư công vào nông nghiệp là 139.000 tỷ đồng. Như vậy, giai đoạn 2026 - 2030 cần tới 166.000 tỷ đồng để đáp ứng mục tiêu trên” - bà Liên nói.

Thực tế hiện nay, đầu tư công vẫn tập trung cho cơ sở hạ tầng cứng, nhất là lĩnh vực thủy lợi, chiếm tỷ lệ 80,8% vốn đầu tư nguồn ngân sách Trung ương trong trung hạn 2021 - 2025, trong khi đó tỷ lệ đầu tư cho khoa học công nghệ - động lực tăng trưởng, tăng năng suất, tăng giá trị gia tăng và nâng cao năng lực chống chịu, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu còn thấp.