Theo Cục Quản lý đất đai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), thời gian qua, nguồn lực về đất đai tiếp tục được phát huy, góp phần tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đồng thời bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người sử dụng đất, lợi ích của nhà nước, chủ đầu tư; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng, ban hành và công bố công khai bảng giá đất theo quy định, công tác xác định giá đất cụ thể đã được các tỉnh, thành phố tổ chức thực hiện đúng quy định, quy trình, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người có đất thu hồi.
Số tiền thu từ đất (tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp) đã tăng qua các năm cho ngân sách nhà nước.
Ví dụ, năm 2015 là 84,8 nghìn tỷ đồng, năm 2016 là 115,3 nghìn tỷ đồng, năm 2017 là 104,4 nghìn tỷ đồng, năm 2018 là 184,5 nghìn tỷ đồng, năm 2019 đạt trên 191,5 nghìn tỷ đồng,… năm 2024 là 304, 821 nghìn tỷ đồng. Trung bình nguồn thu từ đất đóng góp từ 12% đến 15% cho ngân sách, cá biệt có những nơi nguồn thu từ đất chiếm tới trên 30% ngân sách địa phương.
![]() |
| Nguồn lực về đất đai góp phần tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. |
Về công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, nhận thức được vai trò quan trọng của công tác quy hoạch đất đai đối với việc quản lý nhà nước về đất đai, ngành đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phương pháp lập quy hoạch sử dụng đất, kết quả là đã xây dựng được hệ thống văn bản, tài liệu hướng dẫn về công tác lập quy hoạch kế hoạch sử dụng đất khá đầy đủ, khoa học.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã thực sự trở thành công cụ quan trọng để Nhà nước thống nhất quản lý về đất đai, đưa đất đai trở thành nguồn lực cơ bản cho phát triển kinh tế, phân bổ hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia từng thời kỳ đã phát huy vai trò phân bổ nguồn lực đất đai, sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả; bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực về đất đai, đảm bảo quỹ đất đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Ví dụ, thực hiện Kết luận số 53-KL/TW của Bộ Chính trị, ngành đất đai đã trình Quốc hội phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất đến 5 năm (2011 - 2015) của cả nước tại Nghị quyết số 17/2011/QH13 ngày 22/11/2011; thực hiện Luật Đất đai năm 2013, Luật quy hoạch năm 2017, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch…
Hiện nay, nhằm đảm bảo nhu cầu sử dụng đất đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới, Cục Quản lý đất đai đang triển khai lập điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và lập kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2026 - 2030) cấp quốc gia.
Đặc biệt, từ khi thành lập ngành đến nay, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai đã được tăng cường và từng bước kiện toàn về tổ chức và số lượng cán bộ, nhờ đó phát hiện nhiều sai phạm trong quản lý và sử dụng đất, góp phần chống thất thu cho ngân sách nhà nước, đưa đất vào sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.
Theo kết quả rà soát, tổng hợp báo cáo thực trạng sử dụng đất của dự án chậm triển khai, chậm đưa đất vào sử dụng, để hoang hóa. Theo số liệu thời điểm ngày 22/6/2022, qua kết quả rà soát, tổng hợp báo cáo của 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cả nước có 908 dự án, công trình không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng, với diện tích là 28.155 ha.
Trong đó đã xử lý xong (đã thu hồi đất và đã chấm dứt hoạt động dự án) là 172/908 dự án, với diện tích là 6.922 ha; đã xử lý gia hạn sử dụng đất 226/908 dự án, với diện tích là 1.719 ha; đang xử lý 106/908 dự án, với diện tích là 1.206 ha; chưa xử lý 404/908 dự án, với diện tích là 18.308 ha.
Số liệu của Ban chỉ đạo số 751, đến ngày 10/4/2025, đã tổng hợp được 2.421 dự án với quy mô diện tích khoảng 347.086 ha. Theo số liệu cập nhật đến trước ngày 17/7/2025, cả nước có 2.981 dự án có khó khăn, vướng mắc kéo dài; trong đó có 497 dự án đã có kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án; 904 dự án có thể có sai phạm cần được thanh tra; các dự án còn lại chỉ có vướng mắc về trình tự, thủ tục, cơ chế, chính sách pháp luật./.


