Gỡ kịp thời các quy định pháp luật gây khó khăn, cản trở phát triển
Nghị quyết gồm 7 Điều, quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc, phương án, quy trình và trách nhiệm trong việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật. Riêng những nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định; việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt; tố tụng tư pháp; nguyên tắc cơ bản về tổ chức bộ máy thì không áp dụng theo nghị quyết này.
![]() |
Trong chiều 24/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết với 397/411 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 83,05%). |
Về tiêu chí, các khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật gây kìm hãm, ách tắc, cản trở phát triển kinh tế - xã hội được xác định theo một trong ba tiêu chí. Cụ thể là:
Miễn trừ trách nhiệm cho người xây dựng, triển khai Nghị quyếtNgười đứng đầu cơ quan, đơn vị, người tham gia xây dựng nghị quyết này và tham gia xác định, xử lý khó khăn, vướng mắc theo cơ chế đặc biệt quy định tại Nghị quyết này được xem xét loại trừ, miễn trách nhiệm trong trường hợp đã tuân thủ đầy đủ các quy trình, quy định liên quan và không vụ lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhưng vẫn xảy ra thiệt hại |
Quy định mâu thuẫn, chồng chéo trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật hoặc giữa các văn bản quy phạm pháp luật;
Quy định của văn bản quy phạm pháp luật không rõ ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau, không hợp lý, không khả thi, gây khó khăn trong áp dụng, thực hiện pháp luật;
Quy định của văn bản quy phạm pháp luật tạo gánh nặng chi phí tuân thủ, chưa có quy định hoặc có quy định của văn bản quy phạm pháp luật nhưng hạn chế việc đổi mới sáng tạo, phát triển động lực tăng trưởng mới, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hội nhập quốc tế.
Để xử lý các khó khăn, vướng mắc này, Nghị quyết quy định 3 phương án. Một trong các phương án này là Chính phủ được ban hành nghị quyết quy phạm pháp luật để điều chỉnh một số quy định của luật, nghị quyết do Chính phủ trình và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội tại phiên họp, kỳ họp gần nhất.
Theo đó, trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ dẫn đến đồng thời phải sửa đổi, bổ sung luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội không do Chính phủ trình thì cơ quan chủ trì soạn thảo phải xin ý kiến của cơ quan trình luật, pháp lệnh, nghị quyết đó và Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành.
Trường hợp ban hành nghị quyết của Chính phủ có nội dung điều chỉnh vấn đề chưa được luật, nghị quyết của Quốc hội quy định hoặc tác động lớn đến kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại thì phải xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền của Đảng trước khi ban hành.
Không hợp thức hoá sai phạm trước khi có nghị quyết
Nghị quyết của Chính phủ phải xác định rõ thời điểm hết hiệu lực thi hành nhưng phải trước ngày 1/3/2027; danh mục văn bản quy phạm pháp luật và điều, khoản, điểm được đề xuất sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ.
Để bảo đảm việc áp dụng chặt chẽ, Nghị quyết quy định Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không được ủy quyền hoặc phân cấp việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 4 của Nghị quyết này để xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
![]() |
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu dự thảo nghị quyết. |
Trong quá trình góp ý, có ý kiến đại biểu đề nghị nghị quyết này không được hợp thức hóa những sai phạm xảy ra trước khi ban hành nghị quyết.
Giải trình vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khẳng định, nghị quyết này không có mục tiêu, cũng như không được sử dụng để hợp thức hóa bất kỳ sai phạm nào xảy ra trước khi Nghị quyết có hiệu lực.
Để tránh việc lạm dụng trong thực tiễn cũng như ngăn chặn việc hợp thức hóa các sai phạm, bên cạnh việc quy định về tiêu chí xác định, nguyên tắc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật, Nghị quyết cũng quy định cụ thể về các cơ chế kiểm soát và giám sát việc xử lý khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật.
Nghị quyết của Chính phủ được ban hành theo quy định tại khoản này được đánh số, ký hiệu riêng để theo dõi, xử lý. Số, ký hiệu của nghị quyết bao gồm: số được ghi bằng chữ số Ả Rập, thứ tự được đánh liên tiếp theo các năm, bắt đầu từ 66.1, năm ban hành nghị quyết, ký hiệu là NQ-CP. Sau từ “số” có dấu hai chấm (:), giữa số nghị quyết, năm ban hành và ký hiệu có dấu gạch chéo (/). Ví dụ là: Nghị quyết số: 66.1/2025/NQ-CP. |