Tín dụng ngân hàng vẫn đang “gánh” vai trò vốn dài hạn

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2 con số trong giai đoạn 2026 - 2030 thể hiện quyết tâm chính trị rất cao của Đảng và Nhà nước. Để duy trì tăng trưởng cao, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư rất lớn trong trung và dài hạn, không chỉ cho hạ tầng kinh tế - xã hội, mà còn cho chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Dự thảo báo cáo kế hoạch trong giai đoạn này cho thấy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số, dự kiến tổng vốn đầu tư toàn xã hội sẽ tăng lên mức bình quân khoảng 40% GDP hằng năm - mức rất cao so với giai đoạn trước (khoảng 30 - 33%).

Phát triển thị trường vốn trở thành trụ cột huy động nguồn lực cho tăng trưởng
Phát triển thị trường vốn sẽ giúp huy động nguồn lực dài hạn hiệu quả hơn. Ảnh tư liệu

Theo các chuyên gia, một trong những “điểm nghẽn” lớn hiện nay là cấu trúc hệ thống tài chính Việt Nam còn mất cân đối, phụ thuộc quá lớn vào tín dụng ngân hàng. Hiện tín dụng ngân hàng vẫn chiếm khoảng 60 - 65% tổng nguồn vốn cung ứng cho nền kinh tế, trong khi thị trường vốn phát triển chưa tương xứng với quy mô và nhu cầu của nền kinh tế. Tỷ lệ tín dụng trên GDP đã ở mức khoảng 137% và có thể tăng lên 180% vào năm 2030 nếu các kênh dẫn vốn khác không được phát triển. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải khai thác hiệu quả hơn các kênh huy động vốn qua thị trường.

Theo đánh giá của TS. Nguyễn Bá Hùng, hệ thống ngân hàng hiện vẫn giữ vai trò trung tâm trong cung ứng vốn cho nền kinh tế, song cũng bộc lộ những thách thức nhất định. Do đó, cần tăng cường sự kết nối giữa hệ thống ngân hàng với các thị trường tài chính khác như thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ, nhằm đa dạng hóa các kênh huy động và phân bổ vốn, giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng và nâng cao hiệu quả cung ứng vốn cho nền kinh tế.

Chia sẻ về vấn đề này, TS. Nguyễn Bá Hùng - chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cho biết, cấu trúc tài chính của Việt Nam hiện vẫn dựa nhiều vào tín dụng ngân hàng, trong khi thị trường vốn, nhất là các nguồn vốn dài hạn, chưa phát huy đầy đủ vai trò. Nếu tiếp tục dựa chủ yếu vào tín dụng ngân hàng để tài trợ cho các dự án dài hạn sẽ tạo ra rủi ro mất cân đối kỳ hạn và gia tăng áp lực lên hệ thống tài chính.

Đồng thời, việc dồn áp lực lớn lên chính sách tiền tệ trong khi dư địa ngày càng thu hẹp có thể làm gia tăng rủi ro trong kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó gây khó khăn cho mục tiêu phát triển bền vững.

Bên cạnh đó, TS. Nguyễn Bá Hùng còn chỉ ra, việc sử dụng vốn vay ngắn hạn để tài trợ cho các dự án dài hạn làm gia tăng rủi ro cho cả doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng. Theo đó, để giảm áp lực cho hệ thống ngân hàng và nâng cao tính bền vững của tăng trưởng, Việt Nam cần phát triển mạnh thị trường vốn nhằm cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.

“Phát triển thị trường vốn sẽ giúp huy động nguồn lực dài hạn hiệu quả hơn, đồng thời góp phần nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài” - TS. Nguyễn Bá Hùng khẳng định.

Hoàn thiện thể chế, tạo nền tảng cho thị trường vốn minh bạch

Phát triển thị trường vốn không chỉ là yêu cầu trước mắt để đáp ứng nhu cầu vốn cho tăng trưởng cao, mà còn là giải pháp mang tính chiến lược nhằm tái cấu trúc hệ thống tài chính theo hướng cân bằng, an toàn và bền vững hơn.

Từ góc độ quản lý tài chính - ngân sách và thị trường vốn, tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung khẳng định, trong bối cảnh dư địa chính sách tài khóa có hạn, việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước hay tín dụng ngân hàng, mà cần dựa nhiều hơn vào các kênh huy động vốn qua thị trường.

Chính sách tài khóa kiến tạo tăng trưởng dài hạn

“Chính sách tài khóa cần tiếp tục đóng vai trò kiến tạo tăng trưởng dài hạn, được điều hành chủ động, bền vững và có trọng tâm, trọng điểm; cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng nâng cao tỷ trọng chi đầu tư phát triển, tập trung cho hạ tầng chiến lược, liên vùng, hạ tầng số, năng lượng và chuyển đổi xanh”.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung

Thứ trưởng Đỗ Thành Trung nhấn mạnh, cần phát triển thị trường vốn trở thành trụ cột huy động nguồn lực trung và dài hạn, giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng; xây dựng thị trường vốn minh bạch, an toàn, có chiều sâu, thu hút hiệu quả các dòng vốn dài hạn trong và ngoài nước.

TS. Jochen M. Schmittmann - Trưởng Đại diện Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam đánh giá, việc phát triển thị trường vốn sẽ giúp nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài, đồng thời tạo dư địa linh hoạt hơn cho điều hành chính sách vĩ mô. Ông cũng nhận định, nếu được triển khai bài bản, các công cụ tài chính xanh sẽ giúp Việt Nam mở rộng khả năng tiếp cận dòng vốn quốc tế dài hạn, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế trên thị trường tài chính toàn cầu.

Nhìn từ góc độ chuyên sâu hơn về các công cụ tài chính, ông Phạm Xuân Hòe - Tổng Thư ký Hiệp hội Cho thuê tài chính Việt Nam nhấn mạnh vai trò của các định chế tài chính phi ngân hàng trong việc cung cấp vốn trung và dài hạn. Theo ông Hòe, bên cạnh thị trường chứng khoán và trái phiếu, cần phát triển đồng bộ, đa dạng các kênh dẫn vốn là các định chế tài chính trung gian, như công ty cho thuê tài chính, quỹ đầu tư hạ tầng, quỹ hưu trí… để tạo nguồn vốn dài hạn ổn định cho nền kinh tế.

Nhấn mạnh vai trò then chốt của thể chế trong phát triển thị trường vốn, các chuyên gia đều cho rằng, không thể đạt được tăng trưởng 2 con số trong dài hạn nếu thiếu một thị trường vốn phát triển lành mạnh, minh bạch và hiệu quả. Bài học từ giai đoạn biến động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp cho thấy, nếu thiếu khung khổ pháp lý đầy đủ, minh bạch và kỷ luật thị trường, rủi ro có thể nhanh chóng lan rộng, ảnh hưởng tới niềm tin của nhà đầu tư.

Bà Nguyễn Cúc Anh - Đại diện Việt Nam của Quỹ Katina Capital Partners đánh giá, thị trường vốn Việt Nam có tiềm năng lớn, nhưng cần tiếp tục cải cách mạnh mẽ về thể chế, đặc biệt là nâng cao chất lượng công bố thông tin, chuẩn mực kế toán và quản trị doanh nghiệp. Niềm tin của nhà đầu tư là yếu tố cốt lõi quyết định khả năng huy động vốn trung và dài hạn. Vì vậy, để thu hút dòng vốn dài hạn, nhất là vốn quốc tế, thị trường vốn Việt Nam cần đáp ứng các chuẩn mực cao hơn về minh bạch, tính dự báo và bảo vệ nhà đầu tư.

Có thể thấy, phát triển thị trường vốn là lựa chọn chiến lược nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng 2 con số của Việt Nam trong giai đoạn 2026 - 2030. Một thị trường vốn minh bạch, an toàn, hiệu quả sẽ giúp Việt Nam huy động và phân bổ nguồn lực trung và dài hạn tốt hơn, tạo nền tảng cho tăng trưởng nhanh, bền vững và chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số.