Chiều 11/11, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại tổ về dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi); dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo; và dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi).

Phân loại rõ các dự án cần và không cần chấp thuận chủ trương đầu tư

Phát biểu tại tổ, đại biểu Nguyễn Mạnh Hùng (đoàn Cần Thơ) bày tỏ sự nhất trí với việc sửa đổi một số nội dung có tính chất cấp bách của Luật Đầu tư với bốn mục tiêu chính. Đó là tăng cường phân cấp, phân quyền; đơn giản hóa thủ tục hành chính; giảm chi phí tuân thủ và tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua cải cách thể chế.

Theo đại biểu, đây là một chủ trương mới, phù hợp với yêu cầu tạo ra đột phá trong bối cảnh Việt Nam đi sau và cần phải có cơ chế chính sách vượt trội so với trước đây cũng như so với khu vực và quốc tế, nhằm thu hút dự án và dòng vốn đầu tư lớn.

Góp ý cho dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi), đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Thái Nguyên) cho rằng việc bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với nhiều loại dự án là cần thiết, song cần có sự phân loại rõ ràng giữa các nhóm dự án. Với những dự án quy mô lớn, có tác động phức tạp, vẫn cần quy trình chấp thuận chủ trương đầu tư để làm cơ sở xây dựng hồ sơ liên quan.

Sửa Luật Đầu tư: Tạo cơ chế chính sách vượt trội để thu hút dòng vốn mới
Đại biểu Nguyễn Lâm Thành (Thái Nguyên) phát biểu tại tổ.

Đại biểu chỉ ra rằng, vướng mắc hiện nay không nằm ở nguyên lý của thủ tục này, mà ở quy trình và thủ tục còn chồng chéo và tốn thời gian. Thực tế, nhiều hồ sơ xin chấp thuận chủ trương đầu tư được lập gần như tương đương hồ sơ báo cáo khả thi và thiết kế kỹ thuật, khiến hai khâu này bị trùng lặp và kéo dài tiến độ. “Với những dự án có tính chất phức tạp, tác động lớn, vẫn nên giữ bước chấp thuận chủ trương đầu tư, nhưng hồ sơ cần được tinh gọn, tránh rườm rà,” đại biểu đề nghị.

Đại biểu Nguyễn Thị Thủy (đoàn Thái Nguyên), cho rằng việc dự thảo Luật thu hẹp khá căn bản diện dự án phải thực hiện chấp thuận chủ trương là hướng đi đúng với yêu cầu của Đảng. Dự thảo đã bỏ toàn bộ thẩm quyền của Quốc hội trong việc chấp thuận chủ trương đầu tư. Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Thị Thủy lưu ý, nhiều dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp này vẫn còn một số nội dung, chương trình, dự án vẫn quy định việc chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ hơn nội dung này để đại biểu Quốc hội có thêm thông tin.

Theo đại biểu Nguyễn Hữu Toàn (đoàn Lai Châu), việc sửa đổi Luật Đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng để tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, huy động các nguồn lực ngoài ngân sách cho phát triển kinh tế đất nước.

Trong đó, đại biểu nêu rõ việc dự thảo Luật thu hẹp và làm rõ phạm vi các dự án phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư là cần thiết. Tuy nhiên, cần quy định rõ lĩnh vực nào phải thực hiện chấp thuận chủ trương đầu tư; nội dung thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư cần được làm gọn và dùng phương pháp loại trừ.

Cân nhắc các tiêu chí khi phân cấp, phân quyền

Liên quan đến phân cấp, phân quyền, Khoản 1, Điều 26 dự thảo Luật quy định: Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án đầu tư có yêu cầu cơ chế, chính sách đặc thù, khác với quy định của luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định tại khoản 21 Điều 25 của Luật này sau khi được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đồng ý.

Sửa Luật Đầu tư: Tạo cơ chế chính sách vượt trội để thu hút dòng vốn mới
Đại biểu Nguyễn Hữu Toàn phát biểu tại tổ.

Theo đại biểu Sùng A Lềnh (đoàn Lào Cai), cụm từ “cơ chế, chính sách đặc thù” chưa có nội hàm pháp lý cụ thể, không xác định rõ ranh giới áp dụng, chủ thể đề xuất và thời hạn thực hiện.

Vì vậy, đại biểu đề nghị xem xét, bổ sung định nghĩa cụ thể tại Điều 3 (Giải thích từ ngữ), xác định rõ “cơ chế, chính sách đặc thù” trong Luật này là gì để có sự thống nhất trong việc xác định thẩm quyền và trách nhiệm trong triển khai thực hiện.

Sửa Luật Đầu tư: Tạo cơ chế chính sách vượt trội để thu hút dòng vốn mới
Các đại biểu thảo luận tại tổ.

Cũng theo Điều 26 của dự thảo Luật, Thủ tướng Chính phủ được giao thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án có yêu cầu di dân, tái định cư từ 20.000 người trở lên tại khu vực miền núi và từ 50.000 người trở lên ở các vùng khác.

Đại biểu Nguyễn Lâm Thành cho rằng, quy mô dân số như vậy là quá lớn, trên thực tế gần như không có dự án nào đạt đến mức này, đồng nghĩa phần lớn thẩm quyền sẽ chuyển về cho UBND cấp tỉnh. “Ngay cả dự án sân bay Long Thành cũng chỉ có khoảng 23.000 người phải di dời, nhưng Quốc hội vẫn là cơ quan quyết định. Do đó, tôi đề nghị giảm một nửa ngưỡng quy mô di dân, tái định cư", đại biểu đề nghị.

Tương tự, với quy định UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư đối với các dự án có yêu cầu di dân, tái định cư từ 10.000 người trở lên ở miền núi và từ 20.000 người trở lên ở vùng khác, đại biểu cho rằng, con số này cũng quá lớn và cần được điều chỉnh giảm một nửa để phù hợp hơn với thực tế triển khai các dự án hiện nay.

Một nội dung khác được nhiều đại biểu quan tâm là về ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tán thành việc cắt giảm một số ngành nghề, song đại biểu Nguyễn Hữu Toàn đề nghị cần rà soát kỹ lưỡng về nguyên tắc cắt giảm ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhất là những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến an toàn vệ sinh thực phẩm, sức khỏe con người. Đại biểu cũng quan tâm tới việc bỏ ngành tư vấn thuế khỏi danh mục. Theo đại biểu, thông lệ ở các nước phát triển thì đây là ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Đối với quy định về chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư đặc biệt (Điều 18), đại biểu Sùng A Lềnh cho rằng, hiện chưa có cơ chế đánh giá, giám sát và công khai hiệu quả thực hiện ưu đãi. Trong khi đó, thực tiễn cho thấy nhiều dự án được hưởng ưu đãi lớn nhưng không đạt mục tiêu cam kết về tiến độ, việc làm, chuyển giao công nghệ, hoặc hiệu quả lan tỏa.

Vì vậy, đại biểu đề nghị bổ sung thêm một khoản quy định về cơ chế đánh giá định kỳ hiệu quả của chính sách ưu đãi đầu tư. Trường hợp dự án không đạt mục tiêu, chậm triển khai hoặc vi phạm điều kiện ưu đãi, cơ quan có thẩm quyền quyết định thu hồi, điều chỉnh hoặc chấm dứt ưu đãi; kết quả đánh giá được công khai trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đầu tư.

Theo đại biểu, quy định này giúp tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình, đồng thời bảo đảm nguồn lực ưu đãi được sử dụng hiệu quả, đúng mục tiêu chính sách.