| Top ngân hàng có lãi suất tiết kiệm cao nhất tháng 10/2025 Top các ngân hàng được “chọn mặt gửi tiền” giữa thời lãi suất thấp Từ những đồng tiết kiệm nhỏ, gây dựng sức mạnh lớn cho nền kinh tế 
 | 
Hơn 1 thế kỷ lan tỏa tinh thần tiết kiệm
Ngày Tiết kiệm Thế giới ra đời năm 1924 tại Milan (Ý), trong giai đoạn các quốc gia châu Âu cần tái lập niềm tin tài chính sau Thế chiến I. Mục tiêu ban đầu nhằm khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng thay vì giữ tiền mặt, nhằm bảo đảm an toàn tài chính cá nhân và huy động nguồn vốn phục vụ phục hồi kinh tế.
Qua hơn một thế kỷ, ý nghĩa của Ngày Tiết kiệm Thế giới được mở rộng, bao hàm giáo dục tài chính, quản lý chi tiêu, đầu tư và hình thành thói quen tiết kiệm bền vững. Các tổ chức tài chính quốc tế nhận định, tiết kiệm là hành vi cá nhân, mang lại nền tảng sức mạnh của nền kinh tế. Tỷ lệ tiết kiệm cao giúp ổn định tỷ giá, duy trì thanh khoản ngân hàng, giảm phụ thuộc vốn ngoại và tạo điều kiện cho đầu tư dài hạn.
| Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thống kê các nước có tỷ lệ tiết kiệm trên 25% GDP thường đạt tăng trưởng ổn định và năng lực chống chịu cao. Quốc gia có mức tiết kiệm thấp dễ rơi vào thâm hụt ngân sách và lệ thuộc dòng vốn ngoại. | 
Ngày Tiết kiệm Thế giới là công cụ nâng cao nhận thức tài chính toàn cầu, nhất là trong thời kỳ số hóa khi thói quen tiêu dùng thay đổi nhanh.
Ngân hàng số, ví điện tử và nền tảng thanh toán di động mở rộng cơ hội tiếp cận tài chính, nhưng cũng đòi hỏi người dân biết kiểm soát chi tiêu, nợ vay và duy trì kỷ luật tài chính.
|  | 
| Đồ hoạ: Ánh Tuyết. | 
Hiện nhiều quốc gia lồng ghép giáo dục tài chính vào chương trình phổ thông để nuôi dưỡng ý thức tiết kiệm từ nhỏ. Tiết kiệm không giới hạn trong hộ gia đình, mở rộng đến doanh nghiệp và khu vực công. Tích lũy vốn nội địa giúp nền kinh tế tự chủ trước biến động toàn cầu.
Đơn cử, Đức duy trì chương trình “Sparkassen” cấp sổ tiết kiệm cho học sinh tiểu học. Nhật Bản lồng ghép ngày 31/10 vào Tuần lễ Tiết kiệm Quốc gia, khuyến khích tích lũy để phòng thiên tai và tuổi già. Tiết kiệm là biểu hiện của trách nhiệm cá nhân với gia đình và xã hội.
Ngoài ra, kinh nghiệm Ấn Độ và Philippines cho thấy tiết kiệm vi mô có thể nâng thu nhập hộ nghèo 20 - 30% sau 3 năm, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận tín dụng.
Tại Việt Nam, hoạt động truyền thông tháng 10 hằng năm thường lan tỏa khẩu hiệu “Tiết kiệm hôm nay - Thịnh vượng tương lai”. Ngày Tiết kiệm Thế giới cũng được Việt Nam gắn với mục tiêu phát triển bền vững và chuyển đổi số tài chính; trong đó, điểm nhấn là sự kiện “Ngày Thẻ Việt Nam” khuyến khích thanh toán điện tử, góp phần thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện đến năm 2025.
Bùng nổ tài chính số tạo điều kiện mở rộng tiết kiệm. Tính đến giữa năm 2024, Việt Nam có 182 triệu tài khoản thanh toán điện tử, cho thấy độ phủ công nghệ cao. Gửi tiết kiệm trực tuyến nhanh chóng, minh bạch và linh hoạt, giúp các ngân hàng huy động hiệu quả hơn. Ứng dụng dữ liệu lớn giúp thiết kế sản phẩm phù hợp từng nhóm khách hàng, khuyến khích tiết kiệm dài hạn qua lãi suất thưởng hoặc quỹ đầu tư xanh.
Củng cố nội lực tài chính quốc gia, "tấm đệm" trước biến động
Tính đến tháng 7/2025, số liệu Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tổng tiền gửi đạt 15,71 triệu tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó, 7,748 triệu tỷ đồng là tiền gửi dân cư; 7,976 triệu tỷ đồng của doanh nghiệp, thể hiện niềm tin vào hệ thống ngân hàng.
Tuy vậy, dư nợ tín dụng lên tới 17,2 triệu tỷ đồng khiến tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR) vượt mức khuyến nghị 85%, cho thấy áp lực huy động vốn vẫn lớn.
|  | 
Cùng với đó, cấu trúc tiết kiệm vẫn nghiêng về tiền gửi truyền thống. Tỷ trọng đầu tư vào chứng khoán, trái phiếu hay quỹ hưu trí còn thấp, trong khi tại các nền kinh tế phát triển, con số này chiếm 40 - 60% tổng tài sản hộ gia đình. Nguyên nhân chính là thiếu hiểu biết tài chính. Khảo sát cho thấy, chỉ 31% người trưởng thành Việt Nam hiểu rõ lãi suất, rủi ro và đa dạng hóa đầu tư, thấp hơn mức trung bình 45% của khu vực. Do đó, nâng cao giáo dục tài chính trong trường học, doanh nghiệp, truyền thông là chiến lược trọng tâm giúp tiết kiệm có định hướng và bền vững.
Trên phương diện quốc gia, mối quan hệ tiết kiệm - đầu tư thể hiện rõ trong tài khoản vãng lai. Khi tiết kiệm thấp hơn đầu tư, nền kinh tế phải vay nước ngoài, tạo thâm hụt cán cân và ngược lại. Năm 2023, Việt Nam đạt thặng dư vãng lai 1,7% GDP nhờ tiết kiệm hộ gia đình ổn định và xuất khẩu tăng, giúp duy trì dự trữ ngoại hối ở mức 100 - 110 tỷ USD, tương đương 3, 5 tháng nhập khẩu theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước.
Cùng với đó, trong bối cảnh hội nhập, tiết kiệm nội địa trở thành “tấm đệm” giúp Việt Nam chống chịu chu kỳ vốn quốc tế. Giai đoạn 2020 - 2023, khi vốn FDI giải ngân chậm do bất ổn toàn cầu, tổng đầu tư xã hội vẫn tăng nhờ khu vực tư nhân trong nước, cho thấy sức mạnh của vốn nội địa. Nền kinh tế có khả năng tự tài trợ đầu tư sẽ ít chịu tác động từ biến động bên ngoài, duy trì ổn định vĩ mô và bảo đảm phát triển bền vững.
Tiết kiệm cũng là "lá chắn" vững vàng trước khủng hoảng. Thống kê trong giai đoạn Covid-19 cho thấy, các hộ gia đình có dự phòng tài chính tương đương 3 tháng thu nhập duy trì mức chi tiêu ổn định cao hơn 45% so với nhóm không có tiết kiệm. Ở cấp quốc gia, những nước có tỷ lệ tiết kiệm cao như Singapore, Thái Lan và Malaysia đều phục hồi nhanh hơn sau khủng hoảng nhờ nguồn lực nội địa dồi dào.
Về lâu dài, muốn nâng cao tỷ lệ tiết kiệm hiệu quả cần đi cùng cải thiện môi trường đầu tư. Khi cơ hội sinh lời rõ ràng, người dân sẵn sàng tiết kiệm nhiều hơn. Việt Nam đang nghiên cứu phát hành “trái phiếu tiết kiệm xanh” cho cá nhân, đầu tư vào năng lượng tái tạo và xử lý chất thải với mô hình mang lợi ích tài chính và đóng góp phát triển bền vững. Kinh nghiệm từ Đức cho thấy hiệu quả rõ rệt, kể từ năm 2020, nước này đã huy động hơn 6 tỷ Euro thông qua trái phiếu xanh.
Cùng với đó, lãi suất đóng vai trò nhân tố điều tiết then chốt, tác động trực tiếp đến hành vi tích lũy của người dân. Khi lãi suất thực dương, người dân tăng tích lũy để bảo toàn tài sản. Vào năm 2023, lãi suất huy động tại Việt Nam giảm còn 5%/năm, trong khi lạm phát ở mức 3,25%, khiến lãi suất thực không cao, làm giảm sức hấp dẫn gửi tiết kiệm. Lãi suất duy trì thấp quá lâu, dòng tiền có thể chuyển sang đầu cơ bất động sản hoặc vàng, gây rủi ro bong bóng tài sản và giảm tiết kiệm dài hạn./.

 
               
               
               
               
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                               
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                   
                  

 
   
                                   
                                   
                                   
                                   
                                   
                                   
                                   
                                   
               
               
               
               
               
               
               
               
              