PV: Ông đánh giá thế nào về chính sách tài khóa hỗ trợ hiệu quả tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025?
TS. Nguyễn Như Quỳnh: Bình quân giai đoạn 2021 - 2024, tổng số tiền thực hiện miễn giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân đạt gần 200.000 tỷ đồng mỗi năm, chiếm khoảng 10% tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN).
Năm 2025, dự kiến tổng mức hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp là hơn 230.000 tỷ đồng, cao hơn năm 2024 trên 30.000 tỷ đồng.
![]() |
TS. Nguyễn Như Quỳnh |
Trên thực tế, việc giảm thuế đã giúp tăng thu nhờ hiệu ứng mở rộng sản xuất, tăng tiêu dùng và tạo thêm việc làm. Chính sách gia hạn nộp thuế, phí và tiền thuê đất cũng đang phát huy tác dụng như một dạng “khoản vay không lãi suất”, giúp doanh nghiệp có thêm dòng tiền để đầu tư máy móc tự động hóa, tăng năng suất và giảm chi phí lao động. Trong bối cảnh lãi suất thương mại vẫn ở mức cao với nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách gia hạn nộp thuế không chỉ giúp cải thiện thanh khoản mà, còn đóng vai trò như nguồn tín dụng ổn định từ Nhà nước. Việc thực hiện các giải pháp này vừa hướng tới cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.
Trong ngắn hạn, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khôi phục sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế tiếp tục có nhiều biến động. Trong dài hạn, tập trung nguồn lực vốn đầu tư công để nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế, mở rộng dư địa phát triển của đất nước.
Theo tôi, chính sách tài khóa thời gian qua thực hiện nhiều các biện pháp giãn, giảm thuế, phí và tiền thuê đất, song thu NSNN vẫn đạt kết quả khả quan, thu NSNN hàng năm đều vượt dự toán. Điều này phản ánh sự hồi phục của nền kinh tế và hiệu quả của công tác quản lý thu.
![]() |
Chính sách tài khóa thời gian qua thực hiện nhiều các biện pháp giãn, giảm thuế... song thu NSNN vẫn đạt kết quả khả quan. Ảnh: Đức Thanh |
PV: Bên cạnh chính sách gia hạn, giảm thuế phí, các chính sách chi ngân sách tiếp tục được điều chỉnh ưu tiên nguồn lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển ra sao, thưa ông?
TS. Nguyễn Như Quỳnh: Song hành cùng các chính sách thuế hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, các chính sách chi NSNN tiếp tục được điều chỉnh ưu tiên nguồn lực thúc đẩy đầu tư các công trình trọng điểm, đầu tư vào khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số... Việc này hướng đến triển khai các nghị quyết trụ cột để phát triển đất nước trong thời gian tới.
Trong đó, bố trí đủ 3% ngân sách cho khoa học, công nghệ nhằm thực hiện chính sách đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Đồng thời, đảm bảo nguồn lực thực hiện để chi trả kịp thời chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khi thực hiện sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy; thực hiện chính sách miễn học phí.
Tổng chi NSNN 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 ước đạt khoảng 10,5 triệu tỷ đồng, đạt mục tiêu kế hoạch theo Nghị quyết số 23/2021/QH15 (khoảng 10,26 triệu tỷ đồng), chiếm tỷ trọng khoảng 20% GDP. Điều này đảm bảo nguồn lực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội.
Tỷ trọng bố trí dự toán chi đầu tư phát triển đã tăng từ mức 28,3% năm 2021 lên mức 31% năm 2025; tổng nguồn NSNN bố trí cho đầu tư phát triển trong 5 năm đạt khoảng 3,5 triệu tỷ đồng (vượt mục tiêu là 2,87 triệu tỷ đồng). Trong điều hành, nhờ bổ sung từ nguồn dự phòng và tăng thu ngân sách hàng năm nên tỷ trọng bố trí cho chi đầu tư phát triển thực hiện đạt khoảng 32% tổng chi NSNN bình quân giai đoạn 2021 - 2025.
Cùng với đó, công tác giải ngân vốn đầu tư công được Chính phủ và các tổ công tác thúc đẩy giải ngân của Thủ tướng Chính phủ theo dõi sát sao, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện dự án đầu tư nhằm tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân đầu tư công được cải thiện, từ 78,08% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao năm 2021 lên 93% năm 2023 và 93,06% năm 2024.
Ước 9 tháng năm 2025, giải ngân vốn đầu tư công khoảng 454.500 tỷ đồng, đạt 51,4% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. So với cùng kỳ năm 2024, tỷ lệ này cao hơn 6,1% và cao hơn 146.700 tỷ đồng về số tuyệt đối. Vốn đầu tư công được bố trí tập trung hơn, tiếp tục khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, lãng phí. Vốn ngân sách trung ương được dồn lực vào các dự án quan trọng quốc gia, dự án đường cao tốc, dự án liên vùng, trọng điểm…
PV: Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong kỷ nguyên mới, theo ông, cần định hướng chính sách tài khóa như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất?
TS. Nguyễn Như Quỳnh: Việt Nam đang nỗ lực cao nhất để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025, hướng đến tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026 - 2030 và trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Hỗ trợ tài khóa hơn 230.000 tỷ đồng trong năm 2025 Năm 2025, tiếp tục triển khai các chính sách hỗ trợ, bao gồm: giảm thuế giá trị gia tăng 2%; giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn; ưu đãi lệ phí trước bạ đối với ô tô điện chạy pin; gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước; gia hạn thời hạn nộp một số loại thuế và tiền thuê đất... Dự kiến, tổng mức hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp năm 2025 là hơn 230.000 tỷ đồng, cao hơn năm 2024 trên 30.000 tỷ đồng. |
Để hiện thực hóa mục tiêu này, tôi cho rằng, chính sách tài khóa giai đoạn tới cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm: Thứ nhất, hoàn thiện chính sách thu ngân sách theo hướng mở rộng cơ sở thu, nuôi dưỡng nguồn thu bền vững. Cần tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng hiện đại, công bằng và trung lập, phù hợp thông lệ quốc tế. Trọng tâm là mở rộng cơ sở thuế và bảo đảm cơ cấu nguồn thu bền vững. Hoàn thiện quy định về chính sách thuế đối với các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số (đặc biệt là tài sản mã hóa, tiền mã hóa, thương mại điện tử và các nguồn thu phát sinh từ giao dịch xuyên biên giới).
Mở rộng diện thu thuế trong các sắc thuế hiện hành, giảm tối đa các trường hợp miễn, giảm thuế không cần thiết, hạn chế việc lồng ghép mục tiêu xã hội trong chính sách thuế. Điều này giúp hệ thống thuế đơn giản, minh bạch hơn và tăng tính trung lập, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp…
Thứ hai, ưu tiên chi NSNN cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số theo hướng đến 2030, kinh phí chi cho nghiên cứu, phát triển đạt 2% GDP (trong đó kinh phí từ đầu tư xã hội chiếm hơn 60%); bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển để đạt các mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 57-NQ/TW.
Đồng thời, tập trung huy động và ưu tiên nguồn lực quốc gia để tổ chức triển khai thành công một số dự án công nghệ quy mô lớn, có tính đột phá, sản phẩm cụ thể, mang lại tác động mạnh mẽ tới phát triển và giải quyết các bài toán lớn, mang tính chiến lược của đất nước (như AI quốc gia, công nghệ gen chữa bệnh, công nghệ năng lượng nguyên tử, công nghệ đường sắt cao tốc Bắc - Nam, công nghệ chế tạo thiết bị không người lái và robot phục vụ an ninh - quốc phòng...).
Thứ ba, nâng cao hiệu quả đầu tư công, đóng vai trò dẫn dắt và kích hoạt đầu tư xã hội. Bố trí nguồn lực của NSNN (cả trung ương và địa phương) để thực hiện kết cấu hạ tầng chiến lược, công trình kết nối các tỉnh, vùng, kết nối quốc gia, quốc tế, các nòng cốt, trụ cột để bứt phá tăng trưởng kinh tế.
Thứ tư, rà soát, hoàn thiện các quy định về quản lý nợ công đảm bảo đồng bộ với các pháp luật liên quan, cởi bỏ điểm nghẽn trong sử dụng nguồn vốn vay cho mục tiêu phát triển kinh tế. Đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và nước ngoài, giảm áp lực huy động vốn vay, góp phần giảm gánh nợ.
PV: Xin cảm ơn ông!