Việt Nam có thể thu 1,9 tỷ USD/năm nhờ bán tín chỉ carbon quốc tế

Thị trường carbon, với khả năng mua bán tín chỉ carbon, giúp doanh nghiệp tuân thủ các quy định về phát thải khí nhà kính, đồng thời thể hiện cam kết bảo vệ môi trường. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải quốc tế không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa mà còn giúp doanh nghiệp nâng cao hình ảnh và uy tín trong mắt khách hàng và đối tác

Tham gia thị trường carbon quốc tế có thể mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho Việt Nam, với mức doanh thu tiềm năng hàng năm ước tính dao động từ 59 triệu USD đến 1,9 tỷ USD, tùy theo kịch bản triển khai và phạm vi các biện pháp giảm phát thải.

Đó là kết quả nghiên cứu được công bố tại Hội thảo tổng kết đánh giá tác động của hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính (ETS) và tín chỉ carbon do Chương trình Đối tác chuyển đổi năng lượng Đông Nam Á (ETP) phối hợp với Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức mới đây.

Theo ông Hồ Công Hòa (Học viện Chính sách và Phát triển), với các biện pháp giảm phát thải theo kịch bản S56 (56 biện pháp áp dụng cho cả NDC không điều kiện và có điều kiện), Việt Nam có thể đạt doanh thu lên tới 1,9 tỷ USD/năm từ thị trường carbon quốc tế. Trong khi đó, kịch bản S20 (20 biện pháp chỉ cho NDC có điều kiện) mang lại mức thu thấp hơn, khoảng 59–522 triệu USD/năm.

Nếu thu phí giao dịch ở mức 2%, ngân sách nhà nước có thể thu về thêm 1,2–10,4 triệu USD/năm. Tăng trưởng GDP có thể được thúc đẩy thêm từ 0,068–0,32% tùy theo kịch bản và giá carbon. Ngoài ra, tiêu dùng cá nhân tăng, việc làm mở rộng, trong khi chỉ số giá tiêu dùng giảm nhẹ.

Sàn giao dịch là một công cụ định giá carbon hỗ trợ các quốc gia trên lộ trình thực hiện phát thải ròng bằng 0 (Net Zero). Trong giai đoạn 2020-2024, số lượng sàn giao dịch các nước tăng gần gấp rưỡi, lên 37, với tổng doanh thu từ 25 tỷ USD lên hơn 69 tỷ USD.

Theo ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, thị trường ETS và các công cụ định giá carbon như thuế carbon đang trở thành chính sách chủ chốt trong nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu. Tính đến năm 2025, số lượng hệ thống ETS đang hoạt động đã tăng lên 37 (so với 25 hệ thống năm 2020), bao phủ khoảng 23% lượng phát thải toàn cầu. Doanh thu từ các hệ thống ETS toàn cầu cũng tăng gần gấp ba, từ 25 tỷ USD năm 2020 lên 69,1 tỷ USD năm 2024.

Việt Nam đã bắt nhịp với xu hướng này bằng việc đưa nội dung xây dựng thị trường carbon vào Luật Bảo vệ Môi trường 2020 (Điều 139), ban hành các nghị định hướng dẫn như Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Nghị định 119/2025/NĐ-CP, đồng thời lên kế hoạch thí điểm sàn giao dịch carbon trong năm 2025, vận hành chính thức vào năm 2029.

Lợi ích kép từ việc Việt Nam tham gia bán tín chỉ carbon
Với các biện pháp giảm phát thải theo kịch bản S56, Việt Nam có thể đạt doanh thu lên tới 1,9 tỷ USD/năm từ thị trường carbon quốc tế. Ảnh minh họa

Với thị trường trong nước, việc thành lập sàn giao dịch carbon giúp các doanh nghiệp lên sàn bớt gánh nặng tài chính trong giảm thải. Theo tính toán, với việc được mua tín chỉ bù trừ ở mức 30% hạn ngạch khí nhà kính phân bổ, các doanh nghiệp nhiệt điện, xi măng, sắt thép giảm được chi phí tuân thủ từ hơn 420 triệu USD xuống còn gần 70 triệu USD. Tức là, thay vì đầu tư các biện pháp giảm phát thải, họ có thể mua tín chỉ giá rẻ hơn để bù trừ, có thêm "khoảng nghỉ" để chuẩn bị tài chính và công nghệ.

Tạo hành lang pháp lý để vận hành thị trường carbon

Với những lợi ích đó, Việt Nam đang dần hoàn thiện hệ thống chính sách cho sàn giao dịch trong nước. Dự kiến sàn này sẽ được vận hành thí điểm từ nay tới năm 2028, chính thức hoạt động sau đó một năm, với hơn 200 doanh nghiệp trong ba lĩnh vực nhiệt điện, xi măng, sắt thép.

Đầu tháng 9/2025, tại cuộc họp nghe báo cáo về Dự thảo Nghị định về sàn giao dịch carbon trong nước (Dự thảo Nghị định) do Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chủ trì, Bộ Tài chính cho biết, hàng hóa trên sàn giao dịch carbon là hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon theo quy định tại Nghị định số 119/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon.

Chủ thể tham gia giao dịch gồm các cơ sở được phân bổ hạn ngạch, các tổ chức có tín chỉ carbon trên lãnh thổ Việt Nam, cùng những tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính. Công ty chứng khoán được tham gia với vai trò trung gian khớp lệnh, thanh toán, nhưng không trực tiếp giao dịch nhằm hạn chế đầu cơ.

Dự thảo cũng quy định rõ các hành vi không được phép như thao túng giá, cấu kết, tung tin sai sự thật, lợi dụng lỗ hổng công nghệ để chiếm đoạt hạn ngạch hoặc tín chỉ carbon.

Lợi ích kép từ việc Việt Nam tham gia bán tín chỉ carbon
Lợi ích kép từ việc Việt Nam tham gia bán tín chỉ carbon. Ảnh minh họa

Điểm đáng lưu ý là dự thảo xác định rõ quyền và nghĩa vụ của Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam, Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội trong việc tham gia vận hành sàn giao dịch carbon. Việc tận dụng hạ tầng sẵn có của thị trường chứng khoán sẽ tiết kiệm chi phí, đồng thời bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro trong giao dịch. Trong giai đoạn đầu, công ty chứng khoán sẽ làm trung gian để kiểm soát số dư, tránh tình trạng đặt lệnh không có tiền hoặc không có hàng.

Về thanh toán, dự thảo cho phép lựa chọn ngân hàng thương mại đáp ứng điều kiện cần thiết để làm ngân hàng thanh toán. Trong thời gian thí điểm, các đơn vị cung cấp dịch vụ không thu phí, và sẽ bắt đầu thu phí từ năm 2029.

Liên quan đến cơ chế giám sát, Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm toàn diện về hàng hóa đưa vào giao dịch, phân bổ hạn ngạch và quản lý tín chỉ carbon.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có trách nhiệm phối hợp kiểm tra. Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam giám sát Sở Giao dịch Hà Nội. Sở Giao dịch Hà Nội giám sát các hoạt động giao dịch của thành viên. Tổng Công ty Lưu ký giám sát thành viên lưu ký.

Việt Nam đang từng bước xây dựng nền tảng vững chắc cho thị trường carbon, cả trong nước và quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu đẩy mạnh chuyển đổi xanh, việc tận dụng các công cụ thị trường như ETS không chỉ giúp doanh nghiệp linh hoạt lựa chọn phương án giảm phát thải, mà còn mang lại lợi ích kinh tế – tài chính rõ rệt.

Để phát huy tối đa tiềm năng, việc hoàn thiện chính sách, xây dựng năng lực giám sát, và tăng cường hợp tác quốc tế là những yếu tố then chốt giúp Việt Nam hội nhập sâu vào thị trường carbon toàn cầu, đồng thời giữ vững cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Theo các chuyên gia, Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu. Tại Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu lần thứ 26, Việt Nam đưa ra cam kết sẽ đạt Net Zero vào năm 2050 với nhiều giải pháp lớn để cắt giảm phát thải trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, giao thông và năng lượng; bên cạnh đó chú trọng phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời và các biện pháp để tăng cường hiệu quả sử dụng năng lượng.