Trong báo cáo cập nhật về ngành ngân hàng, Công ty cổ phần Chứng khoán MB (MBS) đánh giá, sự sụt giảm bất ngờ biên lãi ròng (NIM) trong quý I chỉ là tạm thời, dự báo NIM trong phần còn lại của năm 2025 sẽ không thấp hơn so với đầu năm, song khó có thể phục hồi vượt mức của năm 2024.
Nhiều khả năng NIM đã chạm đáy
MBS phân tích, dù lãi suất cho vay dự kiến duy trì ở mức thấp hơn so với năm 2024 trong cuối năm 2025, tăng trưởng tín dụng bán lẻ, đặc biệt từ cho vay mua nhà và tiêu dùng, sẽ đóng góp quan trọng cho sự phục hồi của NIM. Ngoài ra, tiền gửi không kỳ hạn (CASA) cải thiện, chủ yếu nhờ tín dụng doanh nghiệp hồi phục mạnh, sẽ tiếp tục hỗ trợ chi phí vốn duy trì ở mức thấp trong vòng 6 - 9 tháng tới.
"Chúng tôi kỳ vọng NIM của khối ngân hàng niêm yết nhiều khả năng đã chạm đáy từ quý II/2025, nhưng khó có thể phục hồi vượt mức của năm 2024. Thu nhập lãi thuần cũng được điều chỉnh giảm so với dự báo trước đó do áp lực suy giảm NIM lớn hơn kỳ vọng, dù cho thấy có dấu hiệu tạo đáy trong quý II/2025" - MBS nhận định.
Trong báo cáo mới đây, nhóm chuyên gia Công ty cổ phần Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cũng đánh giá NIM nhiều khả năng đã tạo đáy, do chịu tác động từ việc giảm lãi phải thu và cạnh tranh lãi suất đầu ra.
![]() |
Nguồn: FiinGroup. |
NIM cải thiện cục bộ, chưa tạo "điểm đảo chiều" Chuyên gia FiinGroup cho rằng, sự cải thiện NIM trong quý II/2025 chỉ ghi nhận ở một số ngân hàng tư nhân quy mô vừa và nhỏ như: SHB (tăng 1,77 điểm phần trăm) và HDB (tăng 0,9 điểm phần trăm), trong khi phần lớn ngân hàng lớn chỉ đi ngang (BIDV, ACB) hoặc tiếp tục giảm (Vietcombank, VietinBank, MB). Điều này cho thấy chưa thể coi đây là “điểm đảo chiều” của NIM. |
Theo bà Đỗ Hồng Vân - Trưởng phòng Phân tích Dữ liệu, Công ty cổ phần FiinGroup, NIM toàn ngành đi ngang ở mức 3,05%, thấp nhất trong 5 năm, nhưng cũng đánh dấu quý đầu tiên không tiếp tục suy giảm sau 6 quý giảm liên tiếp.
Điều này có được nhờ lợi suất cho vay và đầu tư cải thiện mạnh hơn so với tốc độ tăng chi phí vốn. Đồng thời, tỷ lệ cho vay trên huy động (LDR thuần) đạt mức rất cao 108,5%, cho thấy các ngân hàng tận dụng tối đa nguồn vốn để mở rộng cho vay, qua đó giúp NIM ngừng giảm trong quý II.
Tuy nhiên, chuyên gia của FiinGroup cho rằng, dư địa cải thiện NIM không còn nhiều nếu huy động vốn không bắt kịp tín dụng, đặc biệt khi cuối năm thường phát sinh áp lực tăng lãi suất huy động để đáp ứng nhu cầu vốn cao. Hơn nữa, trong bối cảnh Chính phủ vẫn ưu tiên ổn định lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng, nên khả năng cải thiện NIM trong nửa cuối năm khá hạn chế.
Động lực giúp NIM cải thiện nhẹ cuối năm
Trong thời gian cuối năm, VDSC kỳ vọng NIM sẽ cải thiện nhẹ với ba động lực chính. Thứ nhất, nhu cầu vay trung và dài hạn khả quan hơn, kết hợp với chất lượng tài sản lành mạnh, giúp cải thiện lợi suất tài sản sinh lãi.
Thứ hai, nguồn vốn giải ngân đầu tư công dồi dào ước tính trên 500 nghìn tỷ đồng và việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho 4 ngân hàng thương mại tham gia tái cơ cấu ngân hàng yếu kém từ quý IV/2025 khoảng 40 nghìn tỷ đồng sẽ giúp giải tỏa áp lực thanh khoản, ổn định mặt bằng lãi suất huy động.
Thứ ba, trên thực tế, áp lực thanh khoản đã xuất hiện từ đầu tháng 8 khi lãi suất liên ngân hàng bình quân tăng mạnh, có lúc gần 6%, dù Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bơm vốn qua kênh thị trường mở (OMO), đưa quy mô lưu hành chạm ngưỡng 200 nghìn tỷ đồng.
Nhìn lại toàn cảnh bức tranh NIM ngành ngân hàng, ông Lê Hoài Ân, CFA - Chuyên gia nghiên cứu chiến lược ngân hàng, trong khi tăng trưởng tín dụng diễn biến tích cực trong nửa đầu năm 2025, NIM toàn ngành tiếp tục bị bào mòn bởi chính sách giảm lãi suất, cơ cấu tài sản chuyển dịch sang các phân khúc ưu đãi và việc ứng dụng công nghệ để tiết giảm chi phí hoạt động đang trở thành lợi thế cạnh tranh rất lớn giữa các ngân hàng.
"Điều này đặt ra thách thức lớn cho ngành trong việc cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả sinh lời, một bài toán không đơn giản trong môi trường vĩ mô đang chuyển động nhanh chóng" - ông Ân nhấn mạnh.
Theo đó, trong khi các ngân hàng quốc doanh lớn Vietcombank, VietinBank, BIDV, vốn có lợi thế chi phí vốn thấp nhờ CASA cao lại ghi nhận NIM tiếp tục giảm sâu. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ đặc thù danh mục tín dụng ưu tiên, tập trung vào khách hàng doanh nghiệp lớn, các dự án trọng điểm và vốn đầu tư công, những khoản vay thường có lãi suất thấp nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa cho nền kinh tế.
Trong khi nhóm quốc doanh giữ vai trò ổn định hệ thống, các ngân hàng cổ phần đang đối diện áp lực tìm lại hiệu quả sinh lời trong bối cảnh tín dụng bùng nổ nhưng NIM co lại.
Nhóm chuyên cho vay cá nhân như VIB, ACB chịu tác động nặng nề khi nhu cầu tiêu dùng suy yếu và các ngân hàng buộc phải giảm lãi suất để giữ tăng trưởng. Đơn cử, VIB còn 3,4%, ACB giữ ở mức 3,2%.
Ngược lại, nhóm cho vay doanh nghiệp và nhóm ngân hàng khác với chiến lược tăng trưởng ngách lại giữ NIM tốt hơn. HDBank dẫn đầu toàn ngành với NIM 5,2% nhờ cho vay ở thị trường nông thôn, tiểu thương. SHB cải thiện mạnh từ 3,2% lên 3,7% nhờ tái cơ cấu danh mục và đẩy mạnh thu ngoài lãi. KienlongBank giữ vững NIM gần 4% nhờ kiểm soát chi phí, hoạt động ngân hàng địa phương hiệu quả và tập trung thu hút tệp khách hàng đặc thù./.
NIM giảm sâu, "phần chìm" đè nặng lợi nhuận ngân hàng "Sự phục hồi mạnh mẽ của tín dụng trong nửa đầu 2025 là minh chứng rõ rệt cho năng lực ứng biến của hệ thống ngân hàng trước bối cảnh kinh tế thay đổi. Tăng trưởng tín dụng không còn mang tính mùa vụ mà được phân bổ đều theo chiến lược rõ ràng, từ cơ cấu phân khúc khách hàng đến danh mục cho vay ngành nghề. Tuy nhiên, "phần nổi" của tăng trưởng ấy không che giấu được "phần chìm" là áp lực lợi nhuận đang lớn dần khi NIM giảm sâu. Việc hy sinh NIM để giữ thị phần và thúc đẩy phục hồi là chiến lược chấp nhận được trong ngắn hạn, nhưng về dài hạn, đòi hỏi các ngân hàng phải tái cấu trúc mô hình lợi nhuận: tối ưu chi phí vốn, tăng CASA, mở rộng thu ngoài lãi và đầu tư vào chuyển đổi số". |